Teya Salat
Đọc truyện
ABỘ XƯƠNG


llie Sattler vuốt ngược mấy lọn tóc vàng hoe xõa trước trán ra sau và lại tập trung chú ý vào mấy chậu sành chứa acid. Một dãy sáu chậu, nồng độ từ 5 đến 30 phần trăm. Cô phải xem chừng đến các chậu có nồng độ hòa tan mạnh bởi vì chúng sẽ ăn thấm qua lớp đá vôi và bắt đầu xói mòn xương. Xương của một khủng long con rất dễ vỡ. Và cô lấy làm lạ là chúng vẫn tồn tại cho đến bây giờ, sau tám mươi triệu năm. Ellie lơ đãng nghe Grant trả lời:
- Cô Levin? Đây là Alan Grant. Việc này thuộc về… Cô có gì?... Cái gì? - Grant bắt đầu cười - Ồ, tôi không tin điều ấy lắm đâu, cô Levin… không. Tôi thật sự không có thì giờ. Rất tiếc. Vâng, tôi sẽ xem qua, nhưng tôi có thể cam đoan với cô rằng đấy chỉ là một con kỳ nhông. Nhưng… Vâng, cô có thể làm thế. Được rồi. Gửi ngay bây giờ. - Grant treo máy và lắc đầu - Mấy người này thật…
Ellie hỏi:
- Việc gì vậy?
- Một con kỳ đà nào đó mà cô ta muốn xác định chủng loại. Cô ta sắp fax cho tôi một bản X-quang. - Grant đến bên chiếc máy fax và chờ tín hiệu chuyển đến - Ngẫu nhiên mà toi có công việc mới cho cô. Một mẫu nghiệm tốt.
- Thế ư?
- Tìm được ở Seuth Hill. Một con velociraptor non, ngay trước khi chú nhỏ này phơi mình ra. Hàm còn nguyên vẹn răng, vì thế không có vấn đề phải nhận dạng. Và công trường dường như chẳng phải đào bới gì nhiều. Chúng ta thậm chí còn nguyên vẹn cả bộ xương.
- Thật kỳ lạ. Non đến mức nào?
- Rất non, hai tháng tuổi, nhiều lắm là bốn tháng.
- Có đúng là một con velociraptor không?
- Chắc chắn. Cuối cùng có lẽ may mắn đã trở lại với chúng ta.
Trong hai năm đào bới tại Snakewater đội khai quật chỉ tìm thấy khủng long mỏ vịt. Họ đã có bằng chứng là có rất nhiều loài khủng long ăn cỏ này, đi lang thang thành từng bầy từ mười đến hai mươi ngàn con ở các đồng cỏ miền Cetaceous, như những bầy trâu nước đi lang thang sau này. Nhưng dần dà một vấn đề đặt ra là tổ tiên của lũ thú này cư trú ở đâu.
Họ đoán là loài thú tổ tiên này hẳn là hiếm. Những nghiên cứu về chúng và mật độ thú săn mồi ở châu Phi và Ấn Độ gần đây cho thấy, cứ một con thú săn mồi thịt thì có hậu duệ của nó là bốn trăm con thú ăn cỏ. Điều đó có nghĩa là với một bầy khủng long mỏ vịt duckbill mười ngàn con thì tổ tiên của chúng chỉ là hai mươi lăm con khủng long tyranosaur. Vì thế họ khó có thể tìm thấy những thứ còn lại của một bầy lớn khủng long ăn thịt sống.
Nhưng nơi nào có những con thú ăn thịt nhỏ hơn? Vùng Snakewater đã có hàng tá vùng ấp trứng – một vài nơi mặt đất phủ đầy vỏ trứng khủng long - và nhiều khủng long nhỏ ăn trứng.
Có bộ xương con velociraptor này, thật sự có nghĩa là họ đang gặp may mắn. Và là một con non! Ellie biết một trong những mơ ước của Grant là nghiên cứu cách nuôi con của loài ăn cỏ. Có lẽ đây là bước đầu tiên của giấc mơ ấy.
- Ôi Chúa ơi! - ông vừa nhìn chằm chằm vào bản fax vừa nói.
Từ phía sau, Ellie nhìn bản X-quang qua vai Grant, và thở ra nhè nhẹ.
- Giáo sư cho đây là một con amqssicus?
- Đúng vậy. Hoặc là một con triassicus. Bộ xương rất thanh.
Ý nghĩ đầu tiên của Ellie là cô đang nhìn vào một vật dỏm, một vật dỏm tinh xảo, tài tình, nhưng chỉ là một vật dỏm. Mọi nhà sinh vật học biết rằng mối đe dọa của một vật dỏm có mặt khắp nơi. Vật dỏm nổi tiếng nhất, người tiền sử Piltdown. Kẻ gây ra vụ giả mạo này đền giờ vẫn không ai biết. Mới đây, nhà thiên văn nổi tiếng Fred Hoyle tuyên bố rằng con khủng long hóa thạch có cánh, con rchaeopterys, đang trưng bày ở viện bảo tàng Anh quốc là một con giả (Nhưng sau đó lại là con thật).
Bản chất thành công của một vật giả là nó hiện diện trước mắt các nhà khoa học với những gì mà họ mong được thấy. Và, dưới mắt của Ellie, tấm hình X-quang của con kỳ đà hoàn mỹ quá. Bàn chân ba ngón rất cân đối, với ngón giữa nhỏ nhất. Phần còn lại của ngón thứ tư và thứ năm nằm gần khớp xương bàn chân. Xương ống quyển to và tương đối dài hơn xương đùi. Tại hông, chỗ lõm của đầu khớp xương rất hoàn hảo. Chiếc đuôi cho thấy đủ bốn mươi lăm đốt xương. Đây là một con procompsognathus.
- Bản X- quang này có thể giả không? - Ellie hỏi.
- Tôi không biết. Nhưng hầu như không thể giả được một bản X-quang. Và con procompsognathus là một con hiếm thấy. Ngay cả những người biết nhiều về khủng long cũng chưa từng nghe nói đến nó.
Ellie đọc bài ghi chú: "Mẫu vật có được trên bờ biển Cabo Blanco, ngày 16 tháng bảy… Một con khỉ đang ăn con vật và đây là những gì còn lại." Cô nói tiếp.
- Ồ, lời ghi còn nói là con kỳ đà tấn công một bé gái.
- Tôi không tin lắm. - Grant nói - Nhưng có lẽ procompsognathus quá nhỏ và rất nhẹ, chúng ta giả sử nó là một con ăn xác chết súc vật. Và có thể ước định cỡ - ông đo nhanh bức fax - khoảng hai mươi centimet cho đến hông, có nghĩa là toàn bộ con vật cao khoảng ba mươi centimet. To cỡ bằng con gà. Ngay cả một đứa bé trong cũng có vẻ đáng sợ đối với nó. Nó có thể cắn một trẻ sơ sinh chứ không thể cắn một đứa bé.
Ellie cau mày nhìn bản X-quang.
- Giáo sư có cho rằng đây có thể thật sự là một khám phá? Như con coelacanth?
- Có thể.
Con coelacanth là một con cá dài mười lăm mét tưởng đã tiệt giống sáu mươi lăm triệu năm trước cho đến khi một con được đánh bắt lên từ đại dương vào năm 1988. Vẫn còn nhiều ví dụ khác: loài sóc nhỏ mang con trên lưng ở châu Úc chỉ được biết đến qua hóa thạch cho đến khi một con còn sống được tìm thấy trong một thùng rác ở Melbourne. Và một con dơi ăn quả hóa thạch từ mười ngàn năm ở New Guinea đã được một nhà động vật học miêu tả kỹ lưỡng và sau đó không lâu thì ông ta nhận được một con vật mẫu sống gửi qua đường bưu điện.
- Nhưng đây liệu có phải mẫu vật thật không? - Ellie vẫn thắc mắc - Tuổi nó chừng nào?
Grant gật đầu:
- Tuổi là cả một vấn đề.
Phần lớn những con vật được phát hiện lại gần đây được ghi nhận có tuổi hóa thạch là mười hay hai mươi ngàn năm. Một vài trường hợp vài triệu năm; trường hợp con coelacanth, sáu mươi lăm triệu năm. Nhưng vật mẫu họ đang nhìn đây thì co tuổi hơn nhiều. Khủng long tiệt giống từ kỷ Cretaceous, sáu mươi lăm triệu năm trước. Chúng sinh sôi nảy nở như là những sinh vật ngự trị hành tinh này vào kỷ Jurassic từ một trăm chín mươi triệu năm trước. Và chúng xuất hiện lần đầu tiên trên quả đất ở kỷ Triassic gần hai trăm triệu năm trước.
Con procompsognathus đã sống vào thời kỳ đầu của kỷ Triassic, một thời điểm quá xa xôi lúc hành tinh chúng ta chẳng giống chút nào với bây giờ. Tất cả các lục địa đều nối với nhau bằng những dải đất lớn, gọi là Pangca chạy dài từ Bắc cực đến Nam cực - một lục địa cực lớn với cây dương xỉ và rừng rậm, thỉnh thoảng xen vào vài sa mạc rộng mênh mông. Đại Tây dương chỉ là một hồ nước hẹp nằm giữa hai miền mà sau này trở thành châu Phi và vùng Florida châu Mỹ. Không khí đậm đặc hơn. Đất đai nóng ẩm hơn. Có đến hàng trăm núi lửa hoạt động. Con procompsognathus đã sống trong một môi trường như thế.
- Thế thì, - Ellie nói - chúng ta biết thú vật đã sống sót. Cá sấu về căn bản là thú thuộc kỷ Triassic sống thời hiện đại. Cá mập cũng là thú thuộc kỷ Triassic. Vì thế chúng ta biết việc này đã từng xảy ra trước đây.
Grant gật đầu:
- Sự thể là, chúng ta không có cách giải thích nào khác. Hoặc nó là giả - điều tôi nghi ngờ - hoặc là thú được phát hiện lại. Còn là gì khác được nữa?
Điện thoại reo. Grant nói:
- Alice Levin gọi đấy. Chúng ta hỏi xem cô ta có thể gửi cho chúng ta mẫu vật thực ấy không - ông trả lời điện thoại và nhìn Ellie, ngạc nhiên - Vâng tôi sẽ giữ máy chờ ông Hammond. Vâng. Dĩ nhiên.
Ellie hỏi:
- Hammond à? Ông ta muốn gì vậy?
Grant lắc đầu và nói vào điện thoại:
- Vâng, thưa ông Hammond. Rất vui được nghe giọng ông… Vâng.
Grant nhìn Ellie.
- Ồ, ông đã làm thế à. Đúng thế không?
Grant che ống nói lại và bảo Ellie:
- Vẫn quái gở như mọi khi. Cô phải nghe chuyện này.
Grant bấm nút loa và Ellie nghe giọng rè rè khó chịu của một người lớn tuổi nói rất nhanh:
- … Đồ quỷ quái, mấy gã quấy rẩy nào đó ở Cục bảo vệ môi trường, dường như cái cơ quan khỉ gió này đã phái đi một gã dở điên dở khùng, tự ý chạy đến chỗ này chỗ kia nói bậy bạ, thổi phồng sự việc. Chắc ở chỗ giáo sư chưa có gã nào đến quấy rầy chứ?
Grant nói:
- Đúng ra thì có một người đã đến gặp tôi.
Hammond khịt mũi:
- Tôi đã đoán thế. Một gã lừa con ranh vặt tên là Morris phải khômg?
- Vâng, tên anh ta là Morris.
- Gã ta sắp đến gặp tất cả các cố vấn của tôi. Gã đã đến gặp Ian Malcolm hôm kia - nhà toán học ở bang Texas, ông biết chứ? Đây là lần đầu tiên tôi biết chuyện này. Chúng tôi đang gặp xúi quẩy vì vướng phải chuyện khỉ gió này; đấy vẫn là cái kiểu làm của ông nhà nước, chẳng có ai than phiền, chẳng có gì thay đổi, chỉ biết công kích người ta thông qua một gã chẳng có ai giám sát, chạy quanh theo món tiền của người phải đóng thuế. Gã ta làm phiền gì ông không? Làm gián đoạn công việc của ông?
- Không, không, anh ta chẳng làm phiền gì tôi cả.
- Quỷ thật, chuyện này quá tệ, tôi đang cố kiếm cách cho người ta tốp gã lại nếu gã đã làm chuyện khỉ ấy. Tôi đã cho các luật sư gọi đến Cục bảo vệ môi trường tìm xem họ muốn gì đây. Lão đứng đầu cơ quan tuyên bố là lão chẳng hề biết có cuộc điều tra nào cả. Giáo sư cứ tưởng tượng đi. Cái thứ quan liêu giấy tờ chết tiệt ấy. Đồ quỷ! Tôi cho là gã khỉ gió này đang ráng đến Costa Rica thọc gậy lung tung, rồi leo lên đảo của chúng tôi. Giáo sư biết là chúng tôi có một hòn đảo ở đấy chứ?
- Không. - Grant nhìn Ellie - Tôi không biết.
- Ồ thế thì, chúng tôi đã mua một hòn đảo và đã bắt đầu hành động, đâu bốn hay năm năm rồi. Tôi không nhớ chính xác. Gọi là đảo Islan Nublar - đảo rất lớn cách bờ một trăm dặm. Sắp trở thành một nơi bảo tồn sinh vật. Một nơi kỳ diệu, rừng nhiệt đới. Ông biết không, ông cần phải viếng thăm đảo, giáo sư Grant ạ.
- Nghe thú vị đấy… nhưng…
- Hầu như mọi thứ đã xong, ông biết không. - Hammond cắt ngang - Tôi đã cho gửi ông một vài tài liệu về đảo. Ông đã nhận được rồi chứ?
- Chưa, chúng tôi ở khá xa…
- Có thể mấy thứ đó đến ông hôm nay. Ông sẽ xem xem. Hòn đảo thật đẹp. Có đủ mọi thứ. Chúng tôi xây dựng các công trình ba mươi tháng nay rồi. Ông có thể tưởng tượng xem. Một công viên cực lớn. Khai trương vào tháng chín năm tới. Thật sự ông nên đến thăm đảo.
- Nghe kỳ diệu thật, nhưng…
- Thật sự thì - Hammond nói - tôi nhất định mời ông đến viếng đảo, tiến sĩ Grant à. Tôi biết là ông sẽ thấy nó thích hợp với việc ông làm. Ông sẽ thấy rất hấp dẫn.
- Tôi đang ở tận đây…
- Tôi sẽ cho giáo sư hay. - Dường như một ý tưởng chợt đến với Hammond - Tôi đang mời một số cố vấn đến đảo vào kỳ nghỉ cuối tuần này. Sống trên đảo vài ngày và xem qua đảo. Dĩ nhiên phí tổn đều do chúng tôi chịu. Thật là tuyệt nếu ông cho chúng tôi những ý kiến về đảo.
Grant vẫn từ chối:
- Tôi không thể đi được.
- Ồ, chỉ là chuyến đi nghỉ cuối tuần. - Hammond thuyết phục, với giọng vui vẻ - Đó là tất cả những gì tôi mong ở ông, tiến sĩ Grant. Tôi không muốn làm gián đoạn công việc của ông. Tôi biết công việc của ông quan trọng đến nhường nào. Thật vậy, tôi biêt điều đó. Nhưng ông có thể nhởn nhơ trên đảo mầy ngày cuối tuần, rồi trở về vào thứ hai.
Grant nói:
- Không được. Tôi không thể đi nghỉ. Chúng tôi mới tìm được một bộ xương mới và…
- Vâng, tốt quá. Nhưng tôi nghĩ là ông nên đến. - Hammond cứ tiếp tục chẳng để ý đến lời Grant.
- Và chúng tôi vừa mới nhận được một thứ hết sức đáng chú ý, dường như đấy là một con procompsgonathus sống.
- Con gì? - Giọng Hammond chậm lại - Tôi nghe chưa rõ. Ông bảo là một con procompsgonathus sống à?
- Đúng vậy. Đấy là một mẫu vật sinh vật, mấy mảnh còn lại của một con vật thu thập được ở Trung Mỹ. Một con vật sống.
- Ông không nói đùa chứ. Một con vật sống? Kỳ quái thế.
- Vâng. Tôi cũng thấy thế! Vì vậy, ông thấy đấy, đây không phải là lúc tôi bỏ đi được.
- Ở Trung Mỹ, ông vừa nói thế?
- Vâng.
- Vùng nào ở Trung Mỹ, ông biết không?
- Tại một bờ biển có tên là Cabo Blanco, tôi không biết chính xác là ở đâu…
- Tôi hiểu. - Hammond nuốt nước bọt - Và bao giờ thì thứ đó, à mẫu vật đến tay ông?
- Hôm nay.
- Hôm nay. Tôi nghe rồi. Hôm nay. Tôi nghe rồi. Vâng. - Hammond lại nuốt nước bọt
Grant nhìn Ellie và ra hiệu: "Chuyện gì vậy?"
Ellie lắc đầu: "Nghe có vẻ lão ta bối rối."
Grant ra hiệu: "Xem thử Morris còn đấy không?"
Cô đến bên cửa sổ nhìn ra, nhưng xe của Morris đã khuất dạng. Cô trở lại. Ở ống nghe, tiếng Hammond dặng hắng:
- À tiến sĩ Grant, ông đã nói ai nghe chuyện ấy chưa?
- Chưa.
- Tốt. Thế thì tốt. Vậy thì, vâng. Tôi nói thật với ông, tiến sĩ Grant, tôi đang gặp một rắc rối nhỏ về hòn đảo này. Vụ Cục bảo vệ môi trường đến chẳng đúng lúc tí nào.
- Rắc rối ra sao? - Grant hỏi.
- Quỷ thật, chúng tôi đã gặp một vài vấn đề và có vài việc phải trì hoãn… Cứ hiểu là ở đây chúng tôi đang bị áp lực, và tôi muốn ông đến xem qua đảo giùm tôi. Và rồi cho chúng tôi ý kiến. Tôi sẽ trả cho ông mức hai mươi ngàn đôla mỗi ngày. Như vậy là sáu mươi ngàn đôla cho ba ngày. Và nếu ông có thể rủ tiến sĩ Ellie Sattler cùng đi, tôi cũng xin trả với giá ấy. Tôi cần một nhà thực vật học. Ông nghĩ thế nào?
Ellie nhìn Grant khi ông trả lời:
- Vâng, ông Hammond. Món tiền lớn đó chúng tôi sẽ dành cho những vụ khai quật trong hai mùa hè tới…
- Tốt, tốt. - Hammond nói, giọng hài lòng - Tôi muốn việc này để cho giáo sư… Tôi sẽ phái chiếc phản lực của công ty đến đón hai vị tại phi trường riêng ở phía đông Choteau. Ông biết chỗ ấy chứ. Từ chỗ ông lái xe đến đấy mất khoảng hai tiếng. Ông có mặt vào năm giờ sáng mai, tôi chờ ông ở đấy. Ông có thể mời tiến sĩ Ellie cùng đi chuyến này?
- Chắc là chúng tôi cùng đi được.
- Tốt. Mang hành trang nhẹ thôi. Các vị không cần hộ chiếu. Tôi đang chờ đến mai đấy. Hẹn gặp quý vị. - và Hammond gác máy.
-- http://viptruyen.pro --
Anh nắng tràn ngập văn phòng luật sư của Cowan, Swain và Ross, căn phòng sáng sủa vui vẻ nhưng Donald Gennaro chẳng cảm thấy gì. Ông ta nghe điện thoại và nhìn ông chủ mình, Daniel Ross, vẻ mặt lạnh băng như người đưa đám trong bộ đồ màu sẫm có sọc.
- Tôi hiểu, ông Hammond à. - Gennaro nói vào điện thoại - Và Grant đồng ý đến. Tốt, vâng, tôi cho thế là tốt. Xin chúc mừng ông Hammond.
Gennaro gác máy và quay sang Ross:
- Chúng ta không thể tin tưởng vào Hammond được nữa. Ông ta đang chịu nhiều áp lực. Cục bảo vệ môi trường đang điều tra ông ta, và công việc trung tâm nghỉ mát ở Costa Rica đang chậm lại, không theo kịp thời gian chỉ định. Các nhà đầu tư vốn đang băn khoăn. Có quá nhiều lời đồn thổi về các vấn đề ở đấy. Có quá nhiều công nhân chết. Và bây giờ thì việc một con procompsit-sat gì đó ở đất liền.
- Việc ấy có ý nghĩa gì? - Ross hỏi.
- Có lẽ không có gì. Nhưng Hamachi là một trong những nhà đầu tư vốn của chúng ta. Tuần rồi tôi có nhận được một báo cáo của đại diện Hamach ở San José, thủ đô Costa Rica. Theo báo cáo có một loại kỳ nhông mới đang cắn trẻ em ở vùng bờ biển.
Ross nhấp nháy mắt:
- Loài kỳ nhông mới?
- Vâng. Chúng ta không thể đi loanh quanh được. Phải đến tận nơi ngay lập tức. Tôi đã yêu cầu Hammơnd chuẩn bị cho việc khảo sát tại chỗ trong ba tuần tới.
- Hammond nói sao?
- Ông ta quả quyết là chẳng có gì sai trên đảo cả. Đã dự phòng mọi chuyện.
- Nhưng anh không tin ông ta?
- Không. - Gennaro nói - Tôi không tin.
Donald Gennaro làm việc tại văn phòng Cowan, Swain về việc đầu tư ngân hàng. Các khách hàng có kỹ thuật cao cấp của Cowan, Swain cần vốn, và Gennaro giúp họ tìm nguồn vốn. Một trong những công tác đầu tiên được giao cho ông là hợp tác làm ăn với John Hammond vào năm 1982. Ông già này, lúc đó đã gần bảy mươi, cùng lập ngân sách cho công ty InGen. Họ đã đưa vốn lên gần một tỷ đôla sau đó. Và Gennaro nhớiại công việc, thật chẳng khác gì cưỡi lưng cọp. Gennaro nói:
- Hammond là một người có hoài bão.
- Một người mơ ước tiềm tàng đầy nguy hiểm. Đáng lẽ chúng ta chẳng nên dính líu vào.
- Vào lúc ấy thì hình như thế là khôn ngoan. Quỷ thật, thế mà đã tám năm rồi. Chúng ta tham gia hợp tác thay vì nhận một khoản thù lao. Và, nếu ông nhớiại, kế hoạch của Hammond đã được suy xét chín chắn. Ông ta đang gần đến thành công. Không ai cho rằng ông ta có thể để cho việc gì xảy ra.
- Ấy thế mà rõ ràng ông ta đã sơ hở. - Ross nói - Trong mọi trường hợp, tôi đồng ý là cần phải xúc tiến một cuộc điều tra. Thế ý kiến các chuyên gia cộng tác của ta thế nào?
- Tôi đang tiếp xúc với các chuyên gia do Hammond thuê làm cố vấn từ lúc bắt đầu dự án. - Gennaro thảy một danh sách lên bàn của Ross. - Nhóm gồm một nhà khảo cổ động vật, một nhà khảo cổ thực vật và một nhà toán học. Họ sắp đến đấy cuối tuần này. Tôi sẽ đi với họ.
- Họ sẽ nói với ông sự thật?
- Tôi tin vậy. Không một ai có liên hệ gì với đảo cả, và một người trong nhóm này - nhà toán học, Ian Malcolm - thật sự chống đối dự án ngay từ lúc bắt đầu. Ông ta nhất mực cho rằng dự án sẽ không bao giờ thực hiện được, sẽ không thể hoạt động.
- Còn ai nữa?
- Một nhân viên kỹ thuật: nhà phân giải hệ thống computer. Anh ta xem lại các computer của công viên và sửa chữa chỗ trục trặc. Anh này sẽ đến đây vào sáng thứ sáu.
- Tốt. Anh đang chuẩn bị cho họ đến chứ?
- Hammond yêu cầu để đích thân ông ta mời. Tôi nghĩ ông ta muốn mọi người tin rằng ông ta không gặp rắc rối, rằng đó chỉ là việc thăm viếng xã giao. Mời đến để giới thiệu đảo.
- Được thôi. - Ross bảo - Nhưng mọi sự phải được tiến hành. Tôi muốn vụ Costa Rica này giải quyết xong trong vòng một tuần.
Ông ta đứng dậy rời khỏi phòng.
Gennaro quay số, nghe tiếng xì xì của một radiophone. Rồi ông nghe tiếng:
- Grant đây.
- Xin chào tiến sĩ Grant. Donald Gennaro đây. Luật sư thường trực của InGen. Chúng ta có nói chuyện với nhau cách đây vài năm. Không biết giáo sư còn nhớ không…
- Tôi vẫn còn nhớ.
- Hay quá. Tôi vừa mới điện đàm với Hammond, ông ta báo cho tôi tin vui là giáo sư nhận lời đến thăm đảo chúng tôi ở Costa Rica.
- Đúng thế. Chúng tôi sẽ đến đấy vào ngày mai.
- Hay quá. Tôi chỉ muốn bày tỏ lời cảm ơn giáo sư và mọi người trong công ty InGen đánh giá cao sự nhận lời của giáo sư. Chúng tôi cũng đã mời Ian Malcolm, một trong những cố vấn của chúng tôi đến đấy nữa. Ông ta là giáo sư toán Đại học Utah phải không?
- Nghe ông John Hammond bảo vậy. - Grant nói.
- Tốt quá. Tôi cũng sẽ đến đấy. Nhân thể tôi muốn hỏi cái của con procom… mà giáo sư mới tìm được, nó là cái gì vậy?
- Con procompsgonathus.
- Vâng, ông có mẫu vật ở đấy không tiến sĩ Grant? Mẫu vật thực ấy?
- Không. Tôi chỉ có một bản X-quang. Mẫu vật hiện ở New York. Một chị ở Đại học Columbia gọi cho tôi.
- Hay quá. Giáo sư có thể cho tôi biết mọi chi tiết về chuyện này không? Để tôi có thể kể lại cho Hammond. Ông ta rất kích động về cái mẫu vật ấy. Tôi chắc là giáo sư cũng rất muốn thấy.
- Có lẽ tôi sẽ xoay xở để nó được gửi tới đảo trong khi quý vị ở đấy.
Grant kể cho Gennaro mọi chi tiết về mẫu vật. Gennaro nói:
- Hay quá. Thế là tốt, tiến sĩ Grant. Gửi lời chào của tôi đến tiến sĩ Ellie Sattler. Mong được gặp quý vị vào ngày mai. - Gennaro gác máy.
ĐỒ ÁN
Ngày hôm sau, Ellie cầm một bì thư lớn bước vào cuối toa xe trao cho Grant.
- Mới nhận được. Một trong mấy gã đào đất mang ngoài phố về. Của Hammond gửi.
Grant chú ý đến dấu hiệu bằng hình vẽ màu xanh- trắng của công ty InGen khi ông xé phong bì. Bên trong chẳng có thư từ gì, chỉ một xấp giấy tờ. Lật ra, ông thấy đấy là những bản thiết kế được thu nhỏ lại, đóng thành một tập dày. Bìa sách ghi: CÁC TIỆN NGHI DÀNH CHO KHÁCH CỦA TRUNG TÂM NGHỈ MÁT ISLA NUBLAR ( TOÀN BỘ KHU NHÀ NGHỈ SAFARI).
- Thứ quỷ gì thế này? - ông lật vài trang, và một mảnh giấy rơi ra.
Thân gửi Grant và Ellie.
Xin quý vị hiểu cho là chúng tôi không biết nhiều về cách thức trình bày các tài liệu. Nhưng tập sách mỏng này có thể giúp quý vị hình dung được một vài điều về dự án Isla Nublar. Tôi nghĩ là cuốn sách rất hấp dẫn.
Mong được bàn thảo với quý vị!
Hi vọng quý vị sẽ đến với chúng tôi.
Kính.
John Hammond
Grant lật qua những trang sách.
- Tôi chẳng hiểu gì. Đây là những đồ án kiến trúc. - Ông giở trang bìa trong - Trong này ghi tên các nhà chuyên môn ở các lĩnh vực khác nhau tham gia đồ án như kiến trúc sư, kỹ sư, thiết kế công trình, thiết kế điện, computer.
Grant lật những trang đồ án. Mỗi trang đều đóng dấu. BÍ MẬT CÔNG NGHIỆP - CẤM SAO CHÉP. LƯU HÀNH NỘI BỘ - KHÔNG PHỔ BIẾN. Mỗi tờ đều có đánh số, và đầu trang: "Đây là những đồ án thiết kế sáng tạo riêng của công ty InGen".
Trang kế là một trắc đồ của đảo Isla Nublar. Đảo trông như một giọt nước mắt lộn ngược, tròn ở phía bắc, thuôn như búp măng ở phía nam, dài tám dặm và bản đồ đảo được chia ra nhiều vùng lớn.
Vùng phía bắc ghi chú là KHU KHÁCH VIẾNG, có những kiến trúc "Nhà khách", "Trung tâm khách viếng", "Phòng điều hành", "Khu năng lượng", "Kho", "Tư thất Hammond" và "Nhà nghỉ Safari". Grant có thể thấy đường bao quanh của một bể bơi, những hình chữ nhật của sân tennis và các đường dợn sóng tượng trưng các khu trồng cây và bụi cây.
- Trông ra khu nghỉ mát lắm, đúng vậy. - Ellie nói.
Tiếp theo là các tờ vẽ chi tiết của nhà nghỉ Safari. Trong bản vẽ nhìn theo mặt tiền, ngôi nhà nghỉ trông rất thích mắt: một tòa nhà khác trong khu khách viếng không có nhiều chi tiết bằng.
Và phần còn lại của đảo trông còn bí mật hơn. Trong chừng mực Grant có thể hiểu qua bản vẽ, hầu như toàn là ngoài trời. Một mạng lưới đường sá, đường hầm, các dãy nhà phụ, và một chiếc hồ dài, hẹp dường như do người đào với những đê chắn bằng bê tông và rào chấn song sắt. Nhưng phần lớn đảo được chia thành những vùng uốn cong với rất ít khai phá. Mỗi vùng được ghi chú bằng các mã số.
- Có chỗ nào ghi giải thích các mã không?
Grant lật nhanh các trang nhưng không thấy.
- Có thể họ đã lấy đi rồi. - Ellie nói.
- Bí hiểm thật. - Grant nhìn vào các đường cong phân chia vùng, cách nhau bởi một hệ thống đường. Chỉ có sáu vùng trên toàn đảo. Và mỗi vùng được tách khỏi đường bao quanh bằng một hàng rào với dấu hiệu ánh chớp. Dấu hiệu này làm hai người thấy có vẻ bí hiểm cho đến khi họ hiểu ra được đấy là hàng rào có truyền điện.
- Kỳ lạ thật. - Elhe nhận xét -. Hàng rào điện ở nơi nghỉ mát.
- Mà lại dài hàng dặm. - Grant nhận xét thêm - Cả hàng rào điện lẫn mương bê tông và lại có con đường chạy theo nữa.
- Đúng là giống như sở thú.
Họ xem lại bản trắc đồ và nhìn kỹ mấy đường bao quanh. Những con đường được xây ớ những vị trí kỳ lạ. Con đường chính chạy từ bắc đến nam, qua những đồi trung tâm của đảo, gồm cả một phần cắt sâu vào một bên vách đá bên trên một con sông. Ở đây con đường bắt đầu quanh co để khỏi phải chạy qua những vùng phân chia, vây quanh những đường mương và hàng rào điện. Và những con đường đều được đắp cao khỏi mặt đất, vì thế đi trên đường ta có thể nhìn vào trong vùng phân chia qua bên trên hàng rào. Ellie nói:
- Giáo sư xem đây. Một vài kích thước lớn kinh khủng.
Con mương bê tông này rộng hơn mười mét. Chẳng khác gì hào chắn quân sự.
- Các tòa nhà cũng thế. - Grant thấy ở mỗi vùng phân chia đều có vài tòa nhà, nằm ở một góc bên ngoài hào bê tông cốt sắt, tường thật dày. Ở những bản thiết kế vẽ nhìn xiên, các tòa nhà trông như những pháo đài với những ô cửa sổ nhỏ. Tựa như lỗ châu mai.
Vào lúc này, họ nghe tiếng nổ ì ầm từ xa vọng đến. Grant đặt xấp tài liệu qua một bên.
- Hãy đi làm việc đã.
*
- Cho nổ!
Hình ảnh chao động nhẹ rồi một đường bao quanh màu vàng xuất hiện ngang màn hình computer. Lần giải đáp này thật hoàn toàn. Grant nhìn vào bộ xương, được định dạng rõ ràng, chiếc cổ dài cong ngửa ra đằng sau. Chẳng còn nghi ngờ gì nữa, đấy là một con velociraptor non, và hình ảnh trông rất hoàn chỉnh…
Màn hình bỗng trắng xóa. Grant nhấp nháy mắt trong ánh nắng:
- Tôi chúa ghét computer. Việc gì thế này?
Một cậu sinh viên thực tập nói:
- Mất nguồn điện. Chờ một phút thôi.
Cậu ta cúi nhìn đám dây nhợ dẫn đến các bình điện cung cấp năng lượng cho chiếc conputer xách tay đặt trên một thùng bia bằng giấy. Không quá xa đấy là một khí cụ họ gọi là thumper. Grant ngồi xuống lưng đồi và nhìn đồng hồ tay, ông nói với Ellie:
- Chúng ta sắp phải làm việc này theo kiểu cổ điển.
Một cậu đào đất hỏi:
- Ấy, ông Grant, gì vậy?
- Chúng tôi phải đi để kịp chuyến bay. Và tôi muốn tất cả các hóa thạch phải được che giữ trước khi tôi đi.
Việc bảo vệ hóa thạch thường gồm một tấm bạt che mưa nắng bên trên phần đất khai quật và một đường hào đào quanh chu vi công trường để dẫn nước chảy đi. Vấn đề là đường hào phải xa chừng nào để khỏi đụng đến hóa thạch con velociraptor này.
Để quyết định mức rộng, họ đang dùng một kỹ thuật mới, một thiết bị dùng siêu âm và X-quang có tên là CAST cung cấp dữ kiện cho một computer. Đấy là một phương pháp mới: Chiếc thumper bắn một viên đạn chì nhỏ vào lòng đất gây nên những sóng va chạm được máy computer đọc rồi tập hợp sóng thành một hình X-quang của vùng đất đồi.
Chiếc thumper đang ở cách chỗ Grant sáu mươi mét. Đấy là một chiếc thùng lớn bằng bạc trên một xe đẩy bánh lớn, có dù che. Chiếc máy trông giống như một xe bán kem dạo, đỗ tại một nơi chẳng thích hợp chút nào trên vùng đất cằn cỗi này. Thumper có hai sinh viên phụ tá đang lắp một viên đạn chì cho nổ.
Cho đến giờ phút này, chương trình CAST chỉ có việc là xác định mức xa cần của vật khai quật, giúp Grant và cả toán đào xới làm việc hiệu quả hơn. Nhưng các công nhân đào xới nói rằng trong vòng vài năm tới nó sẽ cho một hình ảnh chi tiết hon, khiến việc khai quật sẽ mất ít thời gian. Người ta có thể có được một bức hình thật hoàn toàn của bộ xương về cả ba chiều, và kỹ thuật này thật hứa hẹn một kỷ nguyên mới cho ngành khảo cổ không cần khai quật.
Nhưng các điều ấy chưa xẩy ra. Và cái thiết bị đã hoạt động không chút trục trặc tại trường đại học, ở đây lại tỏ ra sai chập bất thường, thật tội nghiệp. Grant hỏi:
- Còn lâu không?
- Có rồi đấy, giáo sư Grant. Không tệ lắm đâu.
Grant đến nhìn màn hình. Ông thấy được toàn bộ bộ xương được vạch bằng đường sáng màu vàng. Đúng là một con vật con. Có những tính chất vượt trội rõ ràng của một con velociraptor - chân một ngón, mà ở một con trưởng thành sẽ là một móng vuốt cong, một thứ khí giới dài mười lăm centimet có khả năng xẻ dọc con mồi, mà ở đây mới chỉ nhú chưa dài hơn một cái gai bông hồng. Ngón vuốt này hầu như khó mà thấy được trên màn hình. Và velociraptor là một con khủng long có dáng dấp mảnh mai, một mãnh thú có xương thanh cảnh như xương chim, được cho là một con thú rất thông minh.
Ở đây bộ xương hiện ra với một thứ tự hoàn hảo, trừ đầu và cổ hơi cong về phía lưng. Tính chất uốn cong ở cổ như thế rất thường thấy ở các loại hóa thạch khiến một số các nhà khoa học đã hình thành một lý thuyết để cắt nghĩa, cho rằng loài khủng long sở dĩ tiệt giống vì chúng bị nhiễm chất alkaloid có trong thực vật. Chiếc cổ bị cong ra sau được xem là tiêu biểu cho cái chết đau đớn của khủng long. Grant cuối cùng đã bác bỏ thuyết ấy bằng cách chứng minh rằng có rất nhiều chủng loại chim và bò sát trước khi chết đã phải chịu đựng sự co rút đầu và cổ ra phía sau của dây chằng bắp thịt cổ, làm đầu bị kéo ra sau một cách tiêu biểu. Tình trạng này không dính líu gì đến nguyên nhân cái chết; chỉ dính líu đến việc con thú chết phơi xác dưới ánh nắng lâu ngày.
Grant nhận thấy cổ bộ xương đặc biệt này bị kéo lui về phía sau qua một bên, vì thế chân phải cùng bàn chân bị nâng lên ở vị trí cao quá xương sống.
- Trông như bị xoắn. - Một sinh viên nói - Nhưng tôi thường tin đây là do màn hình computer.
Grant nói:
- Không phải. Đấy chỉ do thời gian. Quá nhiều thời gian.
Grant biết là người bình thường khó thể tưởng tượng ra được thời gian địa chất. Cuộc sống loài người được tính trong một tỉ lệ thời gian hoàn toàn khác. Một quả táo trở nên chín vàng trong vài phút. Đồ dùng bằng bạc đổi màu đen xỉn trong vài ngày. Một đồng phân hoại tiêu đi trong một mùa. Một đứa bé trưởng thành trong một thập kỷ. Không một kinh nghiệm bình thường hằng ngày nào chuẩn bị cho con người có khả năng tưởng tượng được ý nghĩa của một thời gian tám mươi triệu năm - độ dài của thời gian đã trôi qua kể từ khi con vật này chết.
Trong lớp học, Grant đã cố đưa ra những so sánh khác nhau. Nếu bạn tưởng tượng một đoạn đời sống sáu mươi năm được thu ngắn lại con một giờ thì tám mươi triệu năm vẫn còn là con số 3652 năm, lâu hơn tuổi của các kim tự tháp. Con velociraptor này chết đã quá lâu.
- Trông chẳng kinh khủng gì lắm. - Một gã đào xin nhận xét.
- Con này thì chẳng kinh khủng gì, - Grant giải thích - ít nhất cũng đến khi nó lớn đủ.
Có lẽ con này ăn các xác chết - xác thú bị các con lớn giết và chén no say, rồi nằm sưởi ấm dưới ánh nắng mặt trời. Thú ăn thịt có thể tiêu thụ một lượng thịt bằng 25% sức nặng của nó trong một bữa ăn, và làm nó buồn ngủ sau đấy. Những con non sẽ kêu chút chít, lổm ngồm bò ngang qua thân hình no nê buồn ngủ của mấy con lớn, gặm cắn những miếng thịt còn lại của con thú chết. Những con non có lẽ là những con vật nhở rất dễ thương.
Nhưng một con velociraptor trưởng thành là một chuyện hoàn toàn khác, nó là một con khủng long tham ăn hung dữ nhất chưa từng có trong loài thú. Dù tương đối nhỏ con, chừng một trăm kilô, lớn cỡ bằng một con báo, con velociraptor rất nhanh nhẹn, thông minh và hung dữ có khả năng tấn công với hàm nhọn, với chi trước có móng nhọn rất mạnh, và chiếc móng đơn có sức tàn phá kinh khủng của chi sau.
Velociraptor đi thành từng bầy để săn mồi, Grant nghĩ hẳn phải là một cảnh hết sức hấp dẫn nếu được xem một đoàn mươi mười lăm con thú này chạy hết tốc lực đuổi theo rồi nhảy lên mình một con khủng long lớn hơn, xé rách cổ và cào toác bụng xẻ sườn con mồi.
- Chúng ta còn rất ít thì giờ. - Ellie nhắc Grant.
Grant chỉ dẫn đào mương nước. Qua hình ảnh của bộ xương ở màn hình computer, họ xác định được vùng nằm của bộ xương. Một mương dẫn nước quanh một khu chừng hai mét vuông là đủ. Trong khi đó Ellie soạn một tấm bạt che. Grant giúp cô đóng những cây cọc cuối cùng. Một sinh viên hỏi:
- Con khủng long non này chết như thế nào nhỉ?
Grant trả lời.
- Khó mà biết được đấy. Tỷ lệ tử vong của thú hoang dã rất cao. Ở các công viên châu Phi, một số loài ăn thịt tử vong đến bảy mươi lăm phần trăm. Lý do cơ thể đủ mọi thứ - bệnh, lạc bầy, bất cứ lý do gì. Thậm chí bị con lớn giết. Chúng ta biết loài thú này đi săn mồi theo đàn, nhưng không biết gì về sinh hoạt xã hội của chúng trong đàn.
Mấy sinh viên gật đầu. Họ đều đã biết các tập tính của thú vật, ví dụ một con sư tử đực khi "nhậm chức" đầu đàn, việc đầu tiên nó làm là giết hết sư tử con. Lý do rõ ràng là do bản năng truyền giống; Con đực gieo rắc gen của nó càng nhiều càng tốt, và bằng cách giết hết sư tử con, nó muốn cho các con cái động đực để có thể làm cho bầy sư tử cái có thai. Nó cũng không muốn cho bầy cái của nó mất thì giờ nuôi nấng chăm sóc con của một con đực khác.
Có lẽ lũ velociraptor cũng có một con đầu đàn khi sống theo bầy. Chúng ta biết còn ít về khủng long quá, Grant nghĩ. Sau 150 năm nghiên cứu và khai quật khắp thế giới, họ vẫn hầu như chưa biết khủng long thật sự sống như thế nào. Ellie nói:
- Đến lúc ngưng rồi đấy, khoảng 5 giờ chúng ta phải đến Choteau.
HAMMOND
Cô thư ký của Gennaro bước vào, tay xách chiếc vali mới. Chiếc vali vẫn còn nhãn hiệu lủng lẳng. Cô ta nghiêm trang nói:
- Thưa ông Gennaro, ông quên sắp xếp vali làm tôi nghĩ ông thật sự chẳng muốn chuyến đi này.
- Có thể cô đúng đấy. Tôi sẽ không dự được sinh nhật của con bé.
Chủ nhật là sinh nhật của bé Amanda, con gái Gennaro, và vợ ông ta, Elizabeth, đã mời đủ hai mươi "bạn" ở lứa bốn tuổi còn khóc nhè đến dự, mời cả chú hề Cappy và một ảo thuật gia. Elizabeth chẳng mấy vui khi biết ông phải đi xa vào cuối tuần. Cả Amanda nữa. Cô thư ký nói:
- Vâng, tôi đã làm đầy đủ viêc ông nhắc. Giày đi rừng đúng cỡ, quần soóc kaki, sơ mi, bộ cạo râu. Một cặp jeans và áo choàng đề phòng trời lạnh. Xe đã sẵn bên dưới, chờ chở ông đến phi trường. Ông phải đi ngay bây giờ để kịp chuyến bay.
Cô thư ký rời khỏi phòng. Gennaro đi dọc theo hành lang, tay xé nhãn hiệu khỏi chiếc vali. Khi ông đi ngang căn phòng gắn toàn cửa kính, Daniel Ross rời bàn giấy bước ra ngoài.
- Đi vui vẻ nhé. - Ross nói - Nhưng chúng ta dứt khoát một điều. Tôi không biết tình huống thật sự xấu đến thế nào, Gennaro, nhưng nếu có vấn đề gì trên hòn đảo ấy thì hãy đốt trụi nó đi nhé.
- Lạy Chúa, ông Ross… Chúng ta đang nói chuyện về một cuộc đầu tư lớn.
- Đừngl do dự. Quên chuyện đầu tư đi. Cứ việc làm như thế. Nghe tôi chứ?
Gennaro gật đầu:
- Tôi nghe. Nhưng Hammond…
- Mặc kệ Hammond.
*
- Ông bạn nhỏ của tôi. - Giọng ồ ề quen thuộc. - Lâu nay ra sao, ông bạn nhỏ?
- Rất tốt, thưa ông. - Gennaro trả lời, người tựa vào chiếc ghế xoay bọc da trong chiếc phản lực cơ Gulfstream II đang bay về phía đông, hướng đến dãy Rocky Mountains.
Hammond thân mật nói:
- Anh không hề gọi tôi lần nào. Tôi rất nhớ anh, anh Gennaro. Vị nội tướng xinh đẹp của anh vẫn khỏe chứ?
- Cô ấy khỏe lắm. Elizabeth rất khỏe. Chúng tôi đã có một bé gái.
- Tuyệt, tuyệt. Trẻ em thật tuyệt. Con bé sẽ đến tung tăng trong công viên mới của chúng ta ở Costa Rica.
Gennaro quên mất là Hammond rất thấp; ngồi trong chiếc ghế máy bay, chân lão không chạm tới tấm thảm. Lão đung đưa chân khi nói. Ông già này tính khí vẫn trẻ con, mặc dầu bây giờ Hammond hẳn phải… bao nhiêu nhỉ? Bảy mươi lăm? Bảy mươi sáu? Vào cỡ ấy, lão ta trông già hơn theo trí nhớ của Gennaro, nhưng ông đã không gặp lão từ năm năm rồi.
Hammond ưa phô trương, bẩm sinh có khiếu tổ chức. Vào năm 1983, lão có một con voi mà đi đâu lão cũng mang theo trong một cái chuồng nhỏ. Con voi cao hai tấc, dài gần ba tấc, một con voi thu nhỏ hoàn toàn, Hammonđ đem con voi vào những buổi họp xin tăng ngân sách. Hammonđ thường mang con voi vào phòng, chuồng được phủ kín bằng tấm mền nhỏ, giống như một thùng ấp bình trà nóng, còn Hammond sẽ phát biểu bài diễn văn thường lệ của lão về viễn ảnh phát triển "sinh vật tiêu thụ". Vào thời điểm kích động nhất, lão hất chiếc mền để lộ con voi ra. Rồi lão đòi thêm tiền.
Con voi luôn tạo thành công. Thân hình nhỏ tí teo, không to hơn một con mèo mấy, do lão kiếm được ở phòng thí nghiệm của Noerman Atherton, một nhà di truyền học theo lão trong cuộc phiêu lưu làm ăn mới. Atherton chỉ việc lấy bào thai của một con voi bất thường rồi nuôi trong một tử cung nhân tạo với các phương thức biến đổi hormon…
Atherton không thể nhân bản con voi nhỏ này, dù ông ta đã cố gắng. Con vật thường nằm mọp khi trời lạnh, đặc biệt là mùa đông. Những cái hắt hắt tuôn ra khỏi thân hình nhỏ nhắn làm Hammond lo lắng. Con voi còn chuồi đôi ngà giữa chấn song chuồng, hắt hơi liên tiếp một cách khó chịu như muốn cố thoát khỏi nơi giam cầm. Đôi khi nó bị nhiễm trùng quanh chỗ mòn của ngà. Hammond luôn lo sợ con voi chết trước khi Atherton có thể tạo nên một con khác.
Hammond cũng giấu những tay đầu tư của mình việc tập tính của con voi đã thay đổi trong quá trình nhỏ hóa. Con thú nhỏ xíu, giống con voi nhưng sinh hoạt giống như một con thú gậm nhấm hung dữ, cử động nhanh nhẹn.
Và mặc dù Hammond nói một cách tin tưởng về bảy tỉ đôla thu nhập hàng năm vào 1993, dự án của lão vẫn bị cho là một cuộc phiêu lưu, cần phải cân nhắc kỹ. Lão có đầu óc và nhiệt tình, nhưng không có gì chắc chắn là kế hoạch của lão sẽ tiến hành tốt cả. Đặc biệt từ khi Noerman Atherton, bộ óc đứng sau thúc đẩy cho kế hoạch của Hammond, bị ung thư, và đấy là điều cuối cùng Hammond bỏ qua không nhắc đến.
Tuy vậy, với sự giúp đỡ của Gennaro, Hammond vẫn kiếm được tiền. Giữa khoảng tháng chín 1983 và tháng mười một 1985, John Allred Hammond và công ty Pachyderm Portfolio của ông ta bỏ một cú vốn liề lĩnh tài trợ cho Hiệp hội kỹ thuật quốc tế về gen di truyền, tức InGen. Và họ đã có thể nâng vốn lên nữa, nếu Hammond không nhất mực giữ bí mật tuyệt đối, và đề nghị không hoàn vốn lại trong thời gian ít nhất là năm năm. Điều này làm cho một số nhà đầu tư ngại không tham gia góp vốn. Cuối cùng, họ phải nhận vốn phần lớn ở các nhà đầu tư Nhật. Các tay đầu tư Nhật là những người duy nhất đủ kiên nhẫn.
Ngồi trong ghế da của chiếc phản lực, Gennaro suy nghĩ về việc Hammond đang tránh né vấn đề. Ông già này đang giả lơ sự việc là văn phòng của Gennaro đã ép buộc lão ta có chuyến đi này. Trái lại, lão làm như thể đây là một chuyến tham quan nghỉ mát cuối tuần. Lão nói:
- Anh bạn không đem chị và cháu đi theo là quá tệ.
Gennaro nhún vai:
- Là vì sinh nhật của nó. Hai mươi "khách" của nó đã mời rồi. Lại bánh và chú hề nữa.
- Ồ, tôi hiểu. Lũ nhỏ luôn để tâm đến mọi thứ đã hứa với chúng.
Gennaro hỏi:
- Nhân thể, công viên đã sẵn sàng cho khách đến viếng chưa?
- Ấy chính thức thì chưa. Nhưng khách sạn xây rồi, vì thế có chỗ để nghỉ lại.
- Còn lũ thú?
- Dĩ nhiên tất cả lũ thú đều trên đảo. Tất cả đều ở đúng chỗ của chúng.
- Tôi nhớ là trong đề nghị đầu tiên, ông hy vọng có tổng số là 12 con.
- Ô, chúng ta có quá xa con số ấy. Chúng ta có hai trăm ba mươi tám con, anh Gennaro à.
- Hai trăm ba mươi tám con?
Lão già cười khúc khích, thích thú với phản ứng của Gennaro:
- Anh không thể tưởng tượng được đâu. Chúng ta có từng bầy thú.
- Hai trăm ba mươi tám… Bao nhiêu loại?
- Mười lăm chủng loại khác nhau, anh Gennaro.
- Thật không. Thật quá kỳ dị. Còn các thứ khác mà ông cần thì sao? Các tiện nghi? Các computer?
- Đủ cả. Đủ cả Mọi thứ trên hòn đảo ấy đều đầy tính nghệ thuật. Anh sẽ tận mắt nhìn thấy. Thật kỳ diệu, Gennaro à. Đấy là lý do tại sao… vụ… này đã đặt sai chỗ, tuyệt đối không có vấn đề gì với hòn đảo cả.
- Và thế là tuyệt đối sẽ chẳng có vấn đề điều tra.
- Không có. Nhưng nó làm chậm trễ mọi thứ. Tất cả đều phải tạm ngừng chờ một cuộc viếng thăm chính thức.
- Dầu sao thì ông cũng đã trì hoãn nhiều lần. Ông đã hoãn lại ngày khai trương.
Hammond đưa tay vân vê chéo khăn tay lụa màu đỏ ở túi áo trên của chiếc áo khoác thể thao:
- Ô, chuyện ấy. Chuyện ấy bắt buộc phải xẩy ra.
- Tại sao?
- Thế đấy, Gennaro à. Để giải thích, anh phải trở lại quan niệm ban đầu của Trung tâm nghỉ mát, quan niệm về một công viên giải trí tiến bộ nhất trên thế giới, tổng hợp các kỹ thuật sinh vật và điện tử mới nhất ngày nay, mọi người đều có môi trường sinh hoạt điện tử. Căn nhà ma ám, cái hang cướp biển, miền Tây hoang dã, động đất… mọi người đều đã kinh qua các trò đó, vì thế chúng ta để tâm thực hiện một sự hấp dẫn du khách bằng sinh vật. Sự hấp dẫn này sẽ gây choáng váng cho bất cứ bộ óc tưởng tượng ghê gớm nào của thế giới.
Gennaro mỉm cười. Hầu như vẫn luận điệu đó, đúng y chang từng từ một, mà lão già này đã dùng để thuyết phục các nhà đầu tư cách đây nhiều năm. Hammond tiếp tục:
- Và chúng ta không bao giở quên mục đích tối thượng của chúng ta trong dự án ở Costa Rica: làm ra tiền. - Lão nhìn qua cửa sổ máy bay - Nhiều và thật nhiều tiền.
- Tôi nhớ.
- Bí quyết làm ra tiền ở một công viên là giới hạn sự tốn kém của người đầu tư. Người giao thực phẩm, người nhận phiếu, đội dọn dẹp, đội sửa chữa. Làm một công viên mà sự điều hành chỉ cần một đội nhân viên tối thiểu. Đấy là lý do tại sao chúng tôi đầu tư nhiều vào kỹ thuật computer - chúng tôi tự động hóa tất cả nơi nào có thể.
- Tôi nhớ.
- Nhưng một thực tế cần giải quyết là khi kết hợp các con thú với các hệ thống computer vào hoạt động, chúng tôi gặp khó khăn bất ngờ. Ai là người tổ chức hệ thống computer cho hoạt động theo chương trình. Tôi chưa biết tìm ai.
- Vì thế ông đã có những lần trì hoãn việc bắt đầu.
- Đúng thế. Những trì hoãn bình thường.
Gennaro nói qua chuyện khác:
- Tôi nghe có những tai nạn xẩy ra trong lúc xây dựng. Một số công nhân chết…
- Vâng. Có một số tai nạn. Và tổng số có ba người chết. Hai thợ chết khi đang xây con đường ở vách đá. Người kia chết vì một tai nạn đất lở vào tháng giêng. Nhưng nhiều tháng nay chúng tôi không gặp tai nạn nào nữa. - Hammond đặt tay lên cánh tay người luật sư - Gennaro, anh hãy tin tôi khi nói là mọi thứ trên đảo đều tiến hành đúng theo kế hoạch. Mọi thứ đều hoàn toàn tốt.
Intercom trong phi cơ kêu tách. Giọng của phi công:
- Xin buộc thắt lưng an toàn. Chúng ta sắp hạ cánh.
(Bạn đang đọc truyện tại KenhTruyen.Wap.Sh chúc các bạn vui vẻ)
Những cánh đồng khô trải dài về phía những dốc đồi thấp. Gió trưa thổi tung bụi và những túm cỏ khô bay ngang qua đường băng đúc bê tông nứt nẻ. Grant đứng với Ellie gần chiếc Jeep trong khi chiếc phản lực lượn vòng đáp xuống. Grant lắc đầu:
- Tôi chúa ghét chờ đợi những kẻ có tiền.
Ellie nhún vai:
- Mình đi vì công việc thôi.
Mặc dầu nhiều lĩnh vực khoa học, như vật lý và toán học, đã được liên bang cung cấp ngân sách, ngành khảo cổ sinh vật vẫn còn phải phụ thuộc các ông chủ tư nhân. Hoàn toàn chẳng có chút tò mò với những thứ trên hòn đảo, nhưng Grant hiểu rằng nếu John Hammond yêu cầu ông giúp đỡ, ông sẽ nghe theo. Đây là cách thức các ông chủ thường làm để ban phát tài trợ, cách luôn luôn có hiệu quả.
Chiếc phản lực nhỏ đáp xuống và lăn bánh nhanh đến chỗ hai người. Ellie xóc lại túi mang vai. Chiếc phi cơ dừng lại và một tiếp viên đồng phục xanh mở cửa.
Vào trong, Grant rất ngạc nhiên thấy khá chật chội, không kể đến những trang bị rất xa hoa. Ông phải cúi thấp người đi từng bước đến bắt tay Hammond. Lão chào:
- Xin chào tiến sĩ Grant và tiến sĩ Ellie. Thật quý báu khi quý vị đến đi với chúng tôi. Cho phép tôi giới thiệu người hợp tác: luật sư Donald Gennaro.
Gennaro là một người khá to con, nhiều bắp thịt, tuổi khoảng ba mươi, mặc một bộ Armani, kính trắng gọng vàng. Grant thấy không thích khi nhìn bề ngoài ông luật sư này. Ông bắt tay nhanh. Khi Ellie bắt tay, Gennaro ngạc nhiên nói:
- Tiến sĩ là một phụ nữ!
Grant nghe Ellire trả lời:
- Thì có sao đâu. - Và ông nghĩ cô cũng chẳng thích anh chàng này.
Hammond quay sang Gennaro:
- Chắc anh đã biết tiến sĩ Grant và tiến sĩ Ellie làm gì. Họ là những nhà cổ sinh vật học. Họ khai quật khủng long. - Và lão bắt đầu cười, dường như thấy ý tưởng ấy rất thú vị.
- Xin mời ngồi vào chỗ. - Cô tiếp viên nói và đóng cửa. Ngay lập tức, chiếc phản lực nhỏ chuyển bánh.
- Xin quý vị thứ lỗi cho, chúng tôi hơi vội. Ông Gennaro cần phải đến ngay đấy.
Viên phi công báo cho biết là phải mất bốn tiếng để bay đến Dallas, ở đấy sẽ tiếp thêm nhiên liệu rồi bay đi Costa Rica. Đến đảo vào sáng hôm sau.
Grant hỏi:
- Chúng ta sẽ ở Costa Rica bao lâu?
Gennaro:
- À, việc ấy còn tùy. Chúng ta có một số điều cần làm sáng tỏ.
Hammond quay qua Grant:
- Tin lời tôi đi. Chúng ta sẽ ở đấy không quá bốn mươi tám tiếng đồng hồ.
Grant cài dây lưng an toàn và nói:
- Cái đảo của quý vị mà chúng ta sắp đến đây - tôi chưa từng nghe nói đến nó bao giờ. Có thứ gì bí mật ở đấy à?
Hammond:
- Về phương diện nào đấy. Chúng tôi đã cẩn thận, hết sức cẩn thận để chắc chắn là không ai biết gì về hòn đảo này, cho đến ngày chúng tôi khai trương trước sự ngạc nhiên của mọi người.
CƠ HỘI
Công ty Biosyn ở California, chưa từng triệu tập một cuộc họp khẩn cấp các giám đốc. Mười người trong hội đồng giám đốc giờ đây đang ngồi trong phòng hội nghị, bồn chồn và nôn nóng. Lúc này là 8 giờ sáng. Họ đã nói chuyện với nhau trong mười phút cuối, nhưng rồi ai nấy yên lặng dần. Họ giở giấy tờ sột soạt. Họ nhìn đồng hồ tay. Một người hỏi:
- Chúng ta chờ ai thế này?
- Một người nữa. - Lewis Dodgson nói - Chúng ta cần một người nữa.
Ông ta nhìn đồng hồ tay. Văn phòng Ron Meyer cho hay là ông này đi chuyến máy bay sáu giờ sáng từ San Diego. Giở này ông ta phải có mặt đây rồi, cho dù xe từ phi trường về thành phố có chậm đi nữa. Một người khác hỏi:
- Ông cần một đa số tối thiểu à?
Dodgson:
- Đúng thế. Chúng ta cần.
Câu trả lời làm họ yên lặng chốc lát. Một đa số tối thiểu có nghĩa là họ sắp được hỏi ý kiến để thực hiện một quyết định quan trọng. Và có chúa mới biết được đa số này gồm những ai. Dodgson chẳng ưa triệu tập hội nghị chút nào. Nhưng Steingaten, chủ tịch công ty, vốn rất sắt đá. Ông ta đã bảo: "Anh cần phải có sự đồng ý của họ về việc này, Dodgson à."
Lewis Dodgson nổi tiếng là một nhà di truyền học năng nổ nhất của thời đại, hay một nhà di truyền học hiếu động nhất. Ba mươi tư tuổi, hói đầu, khuôn mặt diều hâu, luôn căng thẳng. Được công ty Biosyn mời làm việc, ông đã hưởng dẫn vụ thử nghiệm vaccine bệnh dại ở Chile. Bây giờ, ông ta đứng đầu bộ phận phát triển sản phẩm của Biosyn, thường ứng dụng cái gọi là "kỹ thuật đảo ngược": lấy sản phẩm của công ty cạnh tranh về tháo vụn ra, xem nó hoạt động thế nào và rồi thực hiện một mẫu khác của riêng mình. Về mặt thực hành, nó dính dáng đến gián điệp kỹ nghệ, và phần lớn những vụ này đều nhằm đến tập đoàn InGen.
Thập niên 1980, một số công ty kỹ thuật di truyền bắt đầu đặt câu hỏi: "Cái tương đương về mặt sinh học của một máy Walksman của hãng Sony là gì?" Những công ty này không quan tâm đến y dược hay sức khoẻ, họ chỉ quan tâm đến giải trí, thể thao, hoạt động tiêu khiển, mỹ phẩm và thú nuôi làm cảnh. Họ nhận thấy trước là đòi hỏi về "tiêu thụ sinh vật" trong thập niên 1990 sẽ cao. Cả InGen lẫn Biosyn đều hoạt động trong lĩnh vực này.
Biosyn đã đạt được một vài thành công, tạo được một loài cá mòi một màu xám theo hợp đồng với bang Idaho. Loại cá mòi này dễ định được vị trí trong các dòng nước, và được cho là sẽ dễ đánh bắt. Còn sự việc là cá mòi xám thỉnh thoảng chết lềnh bềnh vì ánh nắng, thịt chúng nhão và không mùi vị gì thì không thấy bàn tán gì đến. Biosyn vẫn tiếp tục hoạt động, và…
Cánh cửa mở và Ron Meyer bước vào, buông người vào ghế. Đa số tối thiểu đã có thể thực hiện được. Dodgson lập tức đứng dậy:
- Thưa quý vị, chúng ta họp ở đây hôm nay để xem xét đến mục đích của một cơ hội: tập đoàn InGen.
Dodgson nhắc nhanh qua quá trình. InGen bắt đầu vào năm 1983 với những nhà đầu tư Nhật Bản. Việc mua ba máy siêu điện toán Cray XMP. Việc mua đảo Isla Nublar ở Costa Rica. Việc mua trữ hổ phách. Việc hợp tác bất thường với tất cả các sở thú trên thế giới, từ sở thú new York cho đến khu bảo tồn thú hoang Ranthapur ở Ấn Độ. Dodgson tiếp:
- Cho dù có đủ các thông tin này, chúng ta vẫn chẳng có một tý hiểu biết gì về công việc của InGen. Thông tin này dường như tập trung vào thú vật; và họ đã thuê mướn những nhà khảo cứu chuyên tìm hiểu về quá khứ - các nhà cổ sinh vật, các nhà vật lý di truyền, chuyên khảo sát DNA, vân vân. Và rồi, vào năm 1987, lnGen mua lại một công ty ít được biết đến chuyên sản xuất một số sản phẩm bằng plastic ở Nashvolle, bang Tennessce. Đây là một công ty mà gần đây đã đăng ký bản quyền một loại plastic mới có tính chất như trứng chim. Loại plastic này có thể chế tạo thành vỏ trứng để nuôi bào thai gà. Năm tiếp theo, InGen đã sử dụng hết toàn bộ công suất sản xuất loại plastic này cho riêng công ty.
- Tiến sĩ Dodgson à, việc này xem ra thú vị…
- Cùng lúc, - Dodgson tiếp - có công trình xây dựng ở Isla Nublar. Công trình này liên quan đến việc di chuyển những khối lượng đất đồ sộ, gồm cả một cái hồ dài hai dặm ở trung tâm đảo. Những kế hoạch về các tiện nghi cho một trung tâm nghỉ mát được tiết lộ với độ tin cậy khá cao, nhưng dường như là InGen đang xây một sở thú với các diện tích hết sức rộng trên đảo.
Một trong các giám đốc chồm người tới trước và hỏi:
- Vậy thì nó là cái gì?
Dodgson:
- Đấy không phải là một sở thú bình thường. Sở thú này là độc nhất trên thế giới. Dường như InGen đang làm một việc gì hoàn toàn bất thường. Họ đã xoay xở cố tái sinh lại các con thú đã tuyệt chủng trên quả đất.
- Thú gì?
- Loại thú nở ra từ trứng, và chúng cần nơi sinh sống rộng rãi trong một sở thú.
- Thú gì?
- Họ đang gây giống khủng long.
Sự kinh hoàng tiếp theo đã hoàn toàn đặt sai chỗ, theo quan điểm của Dodgson. Việc rắc rối đối với những người cung cấp tiền là họ đã không theo dõi sự việc: họ đầu tư vào một lĩnh vực mà họ không biết lĩnh vực ấy có khả năng làm được những gì.
Thật sự đã có những thảo luận về việc tái tạo khủng long trong sách vở kỹ thuật từ nhiều năm trước, từ năm 1982. Mỗi năm qua việc nắm được hoạt động của DNA lại càng trở nên dễ dàng hơn. Các chất liệu di truyền được chắt lọc ra từ các xác ướp Ai Cập và từ những con thú Phi châu thuộc giống ngựa vằn quagga đã tuyệt giống từ thập kỷ 1880. Vào năm 1985, dường như có khả năng là DNA của ngựa quagga có thể tái tạo được, và một con thú có thể tái sinh. Nếu quả vậy nó sẽ là sinh vật đầu tiên được tái sinh sau khi đã tuyệt chủng bằng cách tái cấu trúc DNA của nó. Nếu điều đó xảy ra, điều gì khác có thể xảy ra? Một con mastodon. Một con hổ răng kiếm? Một con dodo?
Hay ngay cả một con khủng long?
Dĩ nhiên, không một loại DNA khủng long nào được biết còn tồn tại ở bất cứ nơi nào trên quả đất. Nhưng bằng cách nghiền nát một số lớn xương khủng long có khả năng là có thể lấy ra được một số thành phần trong chuỗi DNA. Ngày trước, người ta cho rằng sự hóa thạch đã hủy hoại tất cả các DNA. Đến giờ, điều ấy được nhận ra là không đúng. Nếu lấy được đầy đủ tất cả các mắt xích cấu trúc của chuỗi DNA người ta có khả năng tái tạo một con vật sống.
Trở lại năm 1982, những vấn đề thuộc kỹ thuật nghe rất ghê sợ. Nhưng không có một rào chắn lý thuyết nào cả. Chỉ có khó khăn, tốn kém, thực hiện khó thành công. Nhưng chắc chắn là có thể thực hiện được, nếu có ai để tâm cố gắng.
InGen rõ ràng đã cố gắng.
Dodgson nói:
- Những gì họ đã làm là xây dựng nên một nơi vĩ đại duy nhất trong lịch sử thế giới để thu hút khách du lịch. Như quý vị đã biết, sở thú cực kỳ phổ biến. Trong năm qua, số người Mỹ đến tham quan sở thú nhiều hơn số người đi xem tất cả các trận khúc côn cầu nhà nghề. Và người Nhật rất thích sở thú - có đến năm mươi sở thú ở Nhật và đang xây dựng thêm nữa. Và với sở thú khồng lồ này, InGen có thể định giá chừng nào tùy thích. Hai ngàn đôla một ngày, mười ngàn đôla một ngày… và rồi còn có các mặt hàng thương mại. Sách ảnh, áo pull in hình, video, mũ, thú nhồi lông, sách truyện tranh, thú cảnh.
- Thú cảnh?
- Dĩ nhiên. Nếu InGen có thể tái sinh khủng long đúng kích thước, họ có thể thực hiện được những con khủng long tý hon làm thú cảnh nuôi trong nhà. Có đứa trẻ nào mà không thích có một khủng long nhỏ để chơi? Một con thú được cấp bằng "sáng chế" của riêng họ. InGen sẽ bán ra hàng triệu con. Và InGen sẽ dùng kỹ thuật di truyền để lũ thú chỉ có thể ăn thực phẩm do họ chế tạo.
- Chúa ơi! - Ai đó thốt lên.
- Đúng thế! - Dodgson tiếp - Sở thú là hoạt động trung tâm của một cuộc kinh doanh khổng lồ.
- Anh nói là khủng long sẽ được trình tòa để lấy độc quyền "sáng chế"?
- Vâng. Thú được tạo ra do kỹ thuật di truyền ngày nay có thể trình tòa để lấy bằng "sáng chế". Tòa án tối cao đã chấp nhận điều này vào năm 1987 vì quyền lợi của Đại học Haward. InGen sẽ có riêng các khủng long của họ và không ai có thể tạo ra khủng long một cách hợp pháp nữa.
- Thế cái gì ngăn chúng ta tạo ra một con khủng long của riêng chúng ta?
- Không có gì ngăn cả, trử chuyện họ có năm năm thực hiện công việc rồi. Hầu như không thể đuổi kịp họ trước cuối thế kỷ này.
Dodgson ngưng một chút, rồi tiếp:
- Dĩ nhiên, nếu chúng ta có được mẫu khủng long của họ, chúng ta có thể xem xét kỹ thuật và làm được giống riêng, với biến đổi DNA đủ để tránh bản quyền của họ.
- Nếu chúng ta có được một con khủng long mẫu của họ? - Một người hỏi.
- Tôi tin là chúng ta sẽ có.
Ai đó nuốt nước bọt:
- Sẽ không có gì bất hợp pháp về việc ấy?
- Ồ, không - Dodgson nói nhanh - không có gì bất hợp pháp. Tôi đang nói đến một nguồn hợp pháp để có DNA của ho. Luật nhân công bất mãn, hay một thứ gì đó loại bỏ đem vất đi, hay đại loại như thế.
- Ông có nguồn hợp pháp không, tiến sĩ Dodgson?
- Tôi có. Nhưng tôi sợ có sự vội vàng trong quyết định, vì InGen đang trải qua một cơn khủng hoảng nhỏ và người của tôi sẽ phải hành động trong hai mươi bốn tiếng đồng hồ tới.
Yên lặng kéo dài khắp phòng họp. Các nhân vật dự họp nhìn vào cô thư ký đang ghi chép, máy ghi âm trước mặt cô ta. Dodgson nói:
- Tôi thấy không cần đến một quyết định chính thức trong vụ này. Chỉ cần sự nhạy cảm của hội đồng, quý vị có cảm thấy là tôi nên tiến hành…
Những cái đầu gật gật. Không một ai cất lời. Không một ai nói vào máy thu. Họ chỉ yên lặng gật đầu.
Dodgson:
- Cám ơn quý vị đã đến họp. Tôi sẽ thực hiện ngay từ phút quý vị quyết định.
PHI TRƯỜNG
Lewis Dodgson bước vào gian bán cà phê của phòng đợi ở phi trường San Francisco, nhìn quanh một lượt. Dodgson đến ngồi một bàn, chiếc cặp đặt trên nền nhà, giữa hai người.
- Anh đến trễ rồi, anh bạn. - người ngồi chờ nói. Anh ta nhìn vào chiếc mũ rơm của Dodgson đang đội và mỉm cười - Thứ này để làm gì đây, cho nổi bật hả?
- Anh không bao giờ biết được đâu. - Dodgson nén giận, trả lời.
Suốt sáu tháng qua, ông ta đã cố làm quen với người này, nhưng mỗi lần gặp lại y càng trở nên khó chịu và hợm hĩnh. Nhưng Dodgson chẳng làm thế nào được. Cả hai đều hiểu thấu tim đen nhau.
Gen DNA được tạo thành do kỹ thuật di truyền là chất liệu quý giá nhất trên thế giới. Một con siêu vi khuẩn, rất bé không thể nào nhìn tả ấy được bằng mắt trần, nhưng chưa những gen của một enzyme gây bệnh tim mạch, hoặc của chất "băng âm tính" để phòng ngừa sự tàn phá vì bằng giá, có thể đáng giá đến năm tỷ đôla đối với người cần mua.
Và giá trị của sự sống bé cùng cực ấy đã tạo nên một thế giới gián điệp kỹ nghệ mới và kỳ lạ. Dodgson đặc biệt có tài về vụ làm ăn kiểu này. Vào năm 1987, ông ta đã thuyết phục được một nhà di truyền học bất mãn bỏ công ty Cetus đến làm việc với Biosyn, đem theo năm loại vi khuẩn. Nhà di truyền học này chỉ việc rỏ vào mỗi móng tay một giọt và đi ra khỏi cửa.
Nhưng với InGen là cả một thách đố khó khăn hơn. Dodgson muốn có những thứ khác hơn là những con vi khuẩn DNA; ông ta cần những phôi ướp lạnh, và Dodgson biết là InGen giữ gìn những thứ này bằngphương tiện an toàn nhất. Để có thứ này ông ta cần một nhân viên của InGen biết tường tận ngõ ngách đến chỗ cất giữ các phôi, một người có thể vượt qua được mọi biện pháp bảo vệ để lấy cắp. Một người như thế không phải dễ kiếm.
Cuối cùng vào đầu năm này, Dodgson cũng tìm ra được một người có thể thực hiện được vụ này. Dù nhân vật đặc biệt đó không có quyền ra vào chỗ cất chứa phôi, Dodgson vẫn duy trì mối tiếp xúc, gặp anh ta hàng tháng, giúp anh ta nhiều chuyện nhỏ. Và vào lúc này InGen đang mời các tay đấu thầu và các cố vấn đến đảo, đấy là co hội mà Dodgson chờ đợi - vì vào lúc này người của Dodgson có thể đến được chỗ cất giữ phôi khủng long.
- Chúng ta vào chuyện đi. - người ấy nói - Tôi còn mười phút nữa thôi.
Dodgson hỏi:
- Anh muốn xét lại chuyện đó à?
- Quỷ thật, không đâu, tiến sĩ Dodgson à. Tôi muốn thấy thứ quỷ quái ấy, món đô ấy mà. - Gã nhìn chiếc cặp - Đủ tất cả trong ấy chưa?
- Một nửa thôi. Bảy trăm năm mươi ngàn.
- Ô kê - Gã quay người, uống ly cà phê - Thế là quá tốt, tiến sĩ Dodgson
Dodgon khóa nhanh chiếc cặp:
- Từng ấy cho tất cả mười lăm chủng loại, anh nhớ đấy.
- Tôi nhớ. Mười lăm chủng loại, phôi đông lạnh. Và làm sao tôi chuyển chúng?
Dodgson trao cho anh ta một bình chứa xà phòng bọt cạo râu hiệu Guillette. Gã hỏi:
- Cái này à?
- Cái này.
- Họ có thể kiểm tra hành lý của tôi.
Dodgson nhún vai:
- Cứ bấm nắp xem.
Người ấy ấn vào nắp. Một tia kem cạo râu trắng phun vào tay gã.
- Không tệ lắm. - Gã quẹt kem vào mép đĩa đựng tách cà phê.
- Chiếc hộp chỉ hơi nặng hơn chiếc hộp bình thường một tí thôi, chỉ chừng ấy.
Toán chuyên viên kỹ thuật của Dodgson đã phải ngồi quanh chiếc hộp hai ngày qua. Ông ta chỉ nhanh cho gã cách vận hành. Gã hỏi:
- Khí lạnh chứa trong ấy có tác dụng bao lâu?
- Đủ cho ba mươi sáu tiếng. Các phôi phải đến San José trong khoảng thời gian ấy.
- Chuyện ấy tùy thuộc vào người của tiến sĩ trên tàu. Để chắc chắn, tốt hơn là họ phải có một máy lạnh xách tay.
- Tôi sẽ cho đem theo .
- Và chúng ta hãy nhắc lại việc trao đổi.
- Như cũ. - Dodgson nói - Năm chục ngàn đô la cho mỗi phôi. Nếu các phôi còn sống, mỗi cái được thêm năm mươi ngàn đô.
- Thế là tốt. Chỉ còn việc ông phải nhớ là cho tàu chờ ở bến tàu phía đông của đảo, vào đêm thứ sáu. Không phải là bến phía bắc nơi các tàu cung cấp các thứ cho đảo đến đâu nhé. Bến phía đông. Đấy là một bến nhỏ ông nhớ chứ?
- Tôi nhớ. Khi nào anh trở lại San José?
- Có lẽ vào chủ nhật. - Người kia đứng dậy rời chỗ.
Dodgson dặn theo:
- Anh chắc chắn là sử dụng được chiếc…?
- Tôi biết. Cứ yên trí. Tôi biết.
- Và chúng tôi biết là đảo luôn giữ liên lạc vô tuyến với ban giám đốc công ty InGen ở California, vì thế…
- Ô đừng quá lo. Tôi sẽ không để một ai biết. Cứ yên tâm và lo sẵn nửa còn lại. Tôi muốn nhận đủ vào sáng chủ nhật, tại phi trường San José. Tiền mặt.
- Tôi sẽ chờ anh vào sáng chủ nhật. Và cũng đừng lo.

.:Trang Chủ:.
Copyright © 2020 - Đọc Truyện - All rights reserved.