Old school Easter eggs.
Đọc truyện
K
hoảng vài phút trước nửa đêm, ông ta bước lên máy bay tại phi cảng Dallas, một người hói đầu, cao, gầy, khoảng ba mươi lăm tuổi, ăn mặc toàn đen từ đầu đến chân: sơ mi đen, quần đen, vớ đen, giầy đen.
- A, tiến sĩ Malcolm. - Hammond chào, cố mỉm cười ra vẻ thân mật.
Malcolm cười:
- Hello, ông Hammond. Tôi e là người bạn cũ của ông sẽ làm ông khó chịu ở đây.
Malcolm bắt tay mọi người, tự giới thiệu nhanh:
- Kính chào quý vị. Tôi là Ian Malcolm. Tôi làm toán. - Ông ta làm cho Grant có ấn tượng là mình thích chuyến đi chơi này nhiều hơn bất cứ ai khác.
Chắc chắn là Grant nhớ tên ông ta. Ian Malcolm là một trong các nhà toán học nổi tiếng của thời đại luôn quan tâm đến câu hỏi "thế giới thật sự hoạt động như thế nào". Các nhà toán học này đã vượt ngoài khuôn khổ toán học truyền thống trong một số phương thức quan trọng. Vì một mặt, họ thường xuyên dùng các computer, một lối thực hành các nhà toán học cổ truyền chẳng mấy thích. Về mặt khác, họ chuyên giải các bài toán, phương trình không có đường biểu diễn, trong một lãnh vực mà họ gọi là "lý thuyết bất ổn". Mặt khác họ cho rằng toán học họ đang nghiên cứu diễn tả được điều gì đó tồn tại trong thế giới. Và cuối cùng, dường như để làm nổi bật việc họ rời bỏ lý thuyết dấn thân vào thế giới thực tại, họ ăn mặc và nói năng theo một phong cách mà một nhà toán học cao niên bảo là "một sự vượt quá khuôn khổ đáng tiếc của tính cá biệt". Thực tế, họ ăn mặc, cư xử như những ca sĩ nhạc rock.
Malcolm ngồi vào một ghế nệm da. Nữ tiếp viên hỏi ông ta có uống gì không. Ông ta nói:
- Coca pha. Lắc nhưng đừng khuấy.
Không khí ẩm ướt của Dallas len vào cánh cửa mở. Ellie hỏi:
- Mặc đồ đen thì có nóng hơn một chút, phải không?
- Cô thật hết sức xinh xắn, tiến sĩ Ellie à. Tôi có thể ngồi suốt ngày để ngắm đôi chân cô. Nóng hơn một chút à? Thật sự thì màu đen là màu tối ưu cho sức nóng. Nếu cô nhớ lại sự phát xạ của các vật thể đen, màu đen luôn hết sức tốt đối với nhiệt. Trong bất cứ trường hợp nào, tôi chỉ mặc hai màu: đen và xám.
Ellie rniệng mở to, nhìn sững ông ta. Malcolm tiếp:
- Hai màu này thích hợp cho mọi dịp. Chúng đi đôi với nhau rất đẹp, nhỡ tôi có vì nhầm lẫn mà mang một đôi vớ xám khi mặc quần đen.
- Nhưng ông không thấy nhàm chán khi chỉ mặc có hai màu?
- Không bao giờ. Tôi lại thấy được tự do. Tôi tin rằng đời tôi có giá trị và tôi không muốn phí thời gian suy nghĩ về chuyện ăn mặc. Tôi không muốn suy nghĩ tôi sẽ mặc gì vào buổi sáng. Thật sự cô có thể tưởng tượng ra chuyện gì nhàm chán hơn chuyện thời trang không? Thế thao nhà nghề, chẳng hạn. Những người lớn tuổi giành giật nhau quả bóng nhỏ trong khi những người còn lại trả tiền để vỗ tay. Nhưng về đại để, tôi thấy thời trang còn nhàm chán hơn thể thao nhiều.
Hammond giải thích:
- Tiến sĩ Malcolm là một người có những ý kiến rất mới lạ.
Malcolm vui vẻ:
- Và hơi khùng nữa. Nhưng quý vị phải thừa nhận rằng đấy lả những vấn đề chẳng có ý nghĩa gì lắm. Chúng ta sống trong một thế giới đầy những thứ định sẵn dễ sợ. Định sẵn là bạn phải cư xử thế này, định sẵn là bạn phải để tâm đến cái kia. Không ai nghĩ ngợi gì về các chuyện định sẵn. Đấy không đáng ngạc nhiên sao? Trong một xã hội thông tin, không một ai suy nghĩ, chúng ta trông chờ đốt bỏ mọi thứ giấy tờ, nhưng chúng ta thực sự đã đốt bỏ tư tưởng.
Hammond quay sang Gennaro, đưa cả hai tay lên:
- Anh đã mời ông ta!
Malcolm:
- Và cũng là một điều may nữa đấy. Bởi vì hình như quý vị có một vấn đề gì nghiêm trọng.
Hammond nói nhanh:
- Chúng tôi chẳng có vấn đề gì.
Malcolm:
- Tôi luôn giữ ý kiến là hòn đảo này rồi chẳng thể nào hoạt động được. Tôi đã tiên đoán từ lúc bắt đầu. - Ông ta với tay lấy chiếc cặp da mềm - Và tôi tin rằng vào giờ này, chúng ta đều biết rằng việc phải xảy ra sắp xảy ra. Ông sắp phải ngưng mọi hoạt động.
Hammond nổi nóng:
- Ngưng mọi hoạt động! Đừng có nói tầm phào.
Malcolm nhún vai, dửng dưng trước cơn giận của Hammond:
- Tôi có mang theo đây bản sao tài liệu của tôi để ông xem lại. Bản tham khảo ý kiến gốc của tôi soạn cho InGen. Toán học hơi rắc rối một tý, nhưng tôi có thể dẫn ông vào được. Ông sắp đi đâu à?
Hammond:
- Tôi cần gọi mấy cú điện thoại. - Lão đứng dậy đi vào cabin phía trước.
Malcolm nói với mấy người còn lại:
- Vâng, chuyến bay khá lâu. Ít ra thì bản tham khảo của tôi sẽ giúp quý vị có chuyện mà làm.
Chiếc phản lực băng mình trong đêm.
Grant giở tập tài liệu, nhìn các phương trình:
- Bản tham khảo của ông kết luận là đảo của Hammond chắc chắn phải thất bại?
- Đúng thế.
- Vì lý thuyết bất ổn?
- Đúng thế. Chính xác hơn là vì hoạt động của hệ thống trên đảo không đúng vị trí không gian.
Gennaro để xấp tài liệu quá một bên và nói:
- Ông có thể giải thích?
- Sure. Nào, hãy xem ta có thể bắt đầu từ đâu. Ông biết một phương trình không đường biểu diễn chứ?
- Không.
- Các lực hấp dẫn từ xa?
- Không.
- Thôi được. Ta hãy trở lại từ đầu. - ông ta dừng một chút, nhìn trần máy bay - Vật lý đã có những thành công lớn mô tả được một số sự việc: các hành tinh trong quỹ đạo, phi thuyền bay lên mặt trăng, con lắc, lò xo, hòn bi lăn, các thứ đại loại như thế. Chuyển động đều của các vật thể. Những thứ này được miêu tả bằng cái được gọi là các phương trình có đường biểu diễn, và các nhà toán học có thể giải những phương trình này rất dễ dàng. Chúng tôi đã làm thứ công việc này hàng trăm năm nay.
- Ô kê.
- Nhưng có một loại sự kiện khác mà vật lý còn chưa giải thích tốt. Ví dụ cái gì liên quan đến tình trạng hỗn độn. Nước từ nguồn phun ra. Không khí di chuyển bên trên cánh máy bay. Thời tiết. Máu chảy qua tim. Các sự kiện hỗn độn được miêu tả bằng các phương trình không có đường biểu diễn. Loại phương trình này khó giải - thực tế thường chúng không thể giải được. Vì thế vật lý chưa bao giờ hiểu thấu các loại sự kiện này. Cho đến cách đây mười năm. Lý thuyết miêu tả loài hiện tượng gọi là lý thuyết bất ổn.
- Lý thuyết bất ổn - Malcolm tiếp - khởi đầu là để thực hiện những bản mẫu về thời tiết qua computer. Thời tiết là một hệ thống phức tạp, gọi đúng tên là bầu khí quyển của mặt đất khi nó hoạt động cùng với các hoạt động của đất đai và mặt trời. Cách hoạt động của hệ thống phức tạp to lớn này luôn thách đố sự tìm hiểu. Vì thế lẽ tự nhiên là ta đã không thể đoán trước được thời tiết. Nhưng những gì mà các nhà khảo cứu trước đây biết được qua các bản mẫu của computer là, cho dù anh có hiểu được hệ thống, anh vẫn không thể tiên đoán được. Sự tiên đoán chính xác thời tiết tuyệt đối không thực hiện được. Lý do là hoạt động của hệ thống phụ thuộc một cách nhạy cảm vào các điều kiện ban đầu.
Gennaro:
- Ông làm tôi lạc lối rồi đấy.
- Nếu tôi dùng một khẩu đại bác bắn một viên đạn có trọng lượng nào đấy, một vận tốc nào đấy, với một độ nghiêng súng nào đấy - và nếu tôi bắn viên đạn thứ hai với cùng trọng lượng, vận tốc, độ nghiêng - Việc gì sẽ xay ra?
- Hai viên đạn sẽ rơi gần như cùng một vị trí.
- Đúng. Đấy là chuyển động có đường biểu diễn.
- Ô kê. - Gennaro gật đầu.
- Nhưng nếu tôi có một hệ thống thời tiết và tôi bắt đầu với một nhiệt độ nào đấy, một tốc độ gĩó nào đấy, một độ ẩm nào đấy và tôi lại lặp lại đúng y nhiệt độ, vận tốc gió, độ ẩm, hệ thống thứ hai sẽ chẳng xảy ra y như trước. Nó sẽ xảy ra rất khác với hệ thống thứ nhất, mưa bão thay vì nắng đẹp. Đấy là các hiện tượng không có đường biểu diễn. Các hiện tượng này rất nhạy cảm với những điều kiện ban đầu: những khác biệt rất nhỏ được khuếch đại ra.
- Tôi thấy có thể hiểu được.
- Điều thiếu sót là "hiệu quả cánh bướm". Một con bướm đập cánh ở Bắc Kinh, và thời tiết ở New York đổi khác.
- Vậy bất ổn chỉ toàn thứ bất ngờ không đoán trước được, phải không?
- Không. Thật sự chúng tôi đã tìm được nhưng quy tắc ẩn núp trong sự biến đổi phức tạp của một hệ thống di chuyển. Vì thế lý thuyết bất ổn bây giờ đã trở thành một lý thuyết rộng lớn dùng để nghiên cứu mọi thứ, từ thị trường chứng khoán đến những đám đông nổi loạn, làn sóng điện não trong cơn co giật. Chúng tôi có thể tìm được một trật-tự-ẩn trong đó. Hiểu chứ?
- Hiểu. Nhưng trật tự ẩn là gì?
- Bản chất nó được định tính bằng chuyển động của hệ thống trong một khoảng không gian.
- Ôi Chúa ơi! - Gennaro lắc đầu - Tất cả điều tôi muốn hiểu là tại sao ông cho rằng đảo của Hammond không thể hoạt động được.
- Tôi hiểu. Tôi sẽ nói đến điều ấy. Lý thuyết bất ổn nói hai điều: Thứ nhất, là các hệ thống phức tạp như thời tiết có một trật tự ẩn. Thứ hai, đảo đề của nó là các hệ đơn giản có thể sinh ra các hiện tượng phức tạp. Ví dụ chơi billard. Ông thúc một quả bóng. Nó bắt đầu lăn, đụng đến mép bàn bên kia và dội ra. Về lý thuyết, đấy là một hệ thống khá đơn giản, hầu như nằm trong hệ lý thuyết Newton. Vì ông có thể tính được lực tác động lên quả bóng, trọng lượng quả bóng và góc mà nó sẽ chạm mép bên kia, ông có thể đoán được sự vận chuyển của nó. Về lý thuyết, ông có thể tiên đoán sự vận chuyển của quá bóng trong tương lai, khi nó cứ tiếp tục chạm nẩy từ mép bàn này đến mép bản khác. Ông có thể tiên đoán nó sẽ chấm dứt chỗ nào trong ba tiếng đồng hồ tới, kể từ lúc này, về lý thuyết.
- Ô kê. - Gennaro gật đầu.
- Nhưng thật sự, hóa ra là ông không thể đoán được hơn vài giây trong tương lai. Vì hầu như ngay lập tức, những hậu quả nhỏ - sự không hoàn toàn của mặt quả bóng, sự lồi lõm rất không đáng kể của gỗ mặt bàn - bắt đầu làm cho sự việc khác đi. Và nó chẳng mất mấy thời gian trước khi làm sự tính toán của ông thành ra sai lạc. Thành thử hệ thống đơn giản của một bàn billard cũng có những chuyển động không đoán trước được.
- Ô kê.
- Và dự án của Hammond, rõ ràng là một hệ thống đơn giản khác - các thú vật trong môi trường sống của chúng - điều này cuối cùng sẽ có những hiện tượng không đoán trước được.
- Ông biết thế là vì…
- Vì lý thuyết.
- Nhưng ông chưa đến đảo để thấy những gì ông ấy đã làm được.
- Không. Việc ấy hoàn toàn không cần thiết. Chi tiết chẳng có ý nghĩa gì. Lý thuyết cho tôi biết là đảo sẽ nhanh chóng có những hoạt động chệch hẳn những gì tiên đoán.
- Và ông tin vào lý thuyết của ông?
- Ồ, vâng. - Malcolm tựa lưng vào ghế - Hoàn toàn tin tưởng. Đảo đang có vấn đề. Đấy là một tai họa sắp xảy ra.
ĐẢO ISLA NUBLAR
Với tiếng rú, cánh quạt bắt đầu quay tròn trên đầu, in bóng xuống đường băng của phi trường San José. Grant lắng nghe tiếng lách cách trong ống nghe của mình khi phi công nói với đài kiểm lưu.
Họ đón thêm một hành khách ở San José, một người tên là Dennis Nedry, đã bay đến đẩy để gặp họ. Anh này mập bự, vẻ yếu ớt đang ăn một thỏi kẹo, ngón tay dính đầy chocolate, mấy mảnh vụn giấy bạc gói kẹo dính nơi áo. Nedry nói lúng búng điều gì đó về việc điều khiển computer trên đảo và không bắt tay ai.
Qua cửa kính, Grant nhìn đường băng đúc bê tông xa dần dưới chân mình, và ông thấy bóng chiếc trực thăng chạy theo khi họ bay về hướng tây đến mấy dãy núi.
Tiếng Hammond từ một chỗ ngồi phía sau nói vọng tới:
- Chuyến bay này mất chừng bốn mươi phút.
Grant nhìn những ngọn đồi thấp xa dần, và rồi họ bay qua những đám mây, vượt ra ngoài nắng. Núi non nhấp nhô trải dài, các đồi trọc bị xói mòn nối tiếp nhau. Tiếng Hammond tiếp:
- Sự kiểm soát dân số ở Costa Rica tốt hơn nhiều quốc gia khác ở Trung Mỹ. Nhưng cho dù vậy, việc khai hoang phá rừng tệ quá. Tình trạng phần lớn đất đai thế này đã có từ mười năm trở lại đây.
Họ bay thấp xuống, ra khỏi một đám mây ở bên kia dãy núi và Grant thấy biển ở bờ tây. Họ bay trên một làng ven biển. Viên phi công cho biết:
- Làng Bahia Anasco. Một làng đánh cá. - Anh ta chỉ về phía bắc - Bờ biển phía trên kia, quý vị thấy khu bảo tồn thiên nhiên Blanco. Những bờ biển thật đẹp.
Phi công cho máy bay bay ra biển. Nước biển xanh, rồi trở nên xanh thẳm. Ánh nắng lấp lánh trên nước. Lúc này vào khoảng mười giờ sáng. Hammond nói:
- Chỉ vài phút nữa chúng ta sẽ nhìn thấy đảo Isla Nublar.
Isla Nublar, Hammond giải thích, thật sự không phải là một hòn đảo. Đúng hơn, đấy là một ngọn núi, một khối núi lửa trồi lên từ đáy biển. Lão nói:
- Nguồn gốc của núi lửa có thể thấy khắp đảo. Có lỗ thoát hơi ở nhiều nơi, và đất dưới chân thường nóng. Vì lý do này, vì các dòng hải lưu, đảo Isla Nublar nằm trong một vùng sương mù. Khi đến đấy quý vị sẽ thấy… A, chúng ta thấy đảo rồi đấy.
Chiếc trực thăng bươn tới trước, thấp gần mặt nước. Ở phía trước, Grant thấy một hòn đảo, nhấp nhô lởm chởm, nổi lên rõ ràng trên mặt nước. Malcolm thốt lên:
- Chúa ơi. Trông giống đảo Alcatraz ở vịnh San Francisco quá.
Những triền dốc rừng bị che mờ trong sương làm cho đảo có một vẻ huyền bí.
- Nhưng rộng hơn nhiều - Hammond nói - dài tám dặm và rộng ba dặm ở điểm rộng nhất, toàn bộ khoảng hai mươi hai dặm vuông. Đảo sẽ là nơi bảo tồn thú rộng nhất ở Bắc Mỹ.
Chiếc trực thăng bắt đầu lên cao, bay về phía bắc của đảo. Grant cố nhìn xuyên qua lớp sương mù dày đặc.
- Thường đảo không có sương mù nhiều như thế này. - Hammond nói. Giọng lão có vẻ lo lắng.
Đầu phía bắc của đảo là những ngọn đồi cao nhất, vượt lên khỏi mặt nước biển sáu trăm mét. Đỉnh các ngọn đồi nằm trong sương mù, nhưng Grant thấy các vách núi đá lởm chởm và mặt biển nhấp nhô ở dưới. Chiếc trực thăng bay cao bên trên mấy dãy đồi. Hammond tiếp:
- Thật không may. Chúng ta phải đáp lên đảo. Tôi chẳng muốn làm thế, vì sẽ quấy rối đàn thú. Và đôi khi hơi dễ sợ một tí…
Giọng Hammond bị ngắt quãng khi người phi công nói:
- Bắt đầu hạ cánh rồi đấy, ngồi vững vào, quý vị.
Chiếc trực thăng hạ thấp xuống và lập tức họ bị bao bọc trong làn sương mù. Grant nghe tiếng bíp bíp liên hồi qua ống nghe, nhưng ông không thể thấy gì cả; rồi ông bắt đầu nhận thấy mờ mờ các cành thông xanh vươn ra khỏi đám sương mít Một vài cành rất gần.
- Anh ta làm quỷ gì vậy? - Malcolm hỏi, nhưng không ai trả lời.
Viên phi công điều khiển cần lái về phía phải rồi về phía trái, mắt nhìn vào rừng thông. Đám cây vẫn rất sát. Phi cơ xuống thật nhanh.
Tiếng bíp bíp to hơn. Grant nhìn viên phi công. Anh ta đang tập trung. Grant nhìn xuống và thấy ánh đèn xuyên sương mù ở dưới. Ánh đèn đang nhấp nháy báo hiệu. Phi công điều khiển máy bay chậm lại và đỗ xuống bãi đáp trực thăng. Tiếng máy chậm dần rồi dừng hẳn. Grant thở phào và cởi dây lưng an toàn. Hammond nói:
- Chúng ta phải xuống nhanh bằng cách ấy. Vì có gió tạt. Ở đây thường hay có loại gió tạt rất tệ hại, và… tốt thôi, chúng ta đã xuống an toàn.
Một người đang chạy tới phía trực thăng. Một người đội mũ lưỡi trai, tóc đỏ. Anh ta chạy tới kéo cửa máy bay mở rộng và vui vẻ:
- Xin chào. Tôi là Ed Regis. Hoan nghênh quý vị đến viếng đảo Isla Nublar. Xin bước cẩn thận.
Một con đường hẹp chạy quanh co xuống đồi. Không khí ẩm và hơi ớn lạnh. Khi họ xuống thấp hơn, sương mù quanh họ mỏng dần và Grant có thể thấy quang cảnh rõ hơn. Ông thấy đảo rất giống bán đảo Olympic ở tây bắc Thái Bình dương.
- Đúng vậy. - Regis nói - Hệ sinh thái nguyên thủy ở đây là rừng mưa không đều. Hơi khác với đất trồng ở đất liền, vốn thuộc dạng rừng mưa cổ điển. Nhưng đây là một loại khí hậu chỉ có ở những vùng cao, trên những đồi phía bắc. Khí hậu phần lớn ở đảo là nhiệt đới.
Ở phía dưới xa, họ có thể thấy những mái thẳng của những tòa nhà lớn nằm giữa những đám cây trồng. Grant lấy làm ngạc nhiên. Sự xây cất thật kỹ lưỡng. Họ xuống thấp dần, ra khỏi hẳn đám sương, và bây giờ ông có thể thấy toàn bộ miền đất trải dài về phía nam của đảo. Đúng như Regis nói, đảo hầu như bao phủ bởi rừng nhiệt đới.
Về phía nam, vươn cao lên khỏi ngọn các cây cọ dừa, Grant thấy một thân cây đứng riêng không có một ngọn lá nào, chỉ với một chỗ uốn cong phía trên. Và rồi thân cây chuyển động, vặn mình đối diện với đám người mới đến. Grant nhận thấy đấy chẳng phải là một thân cây nào cả.
Ông đang nhìn vào một chiếc cổ cong mượt mà của một sinh vật khổng lồ đứng cao hơn mười lăm mét trên không.
Ông đang nhìn một con khủng long.
TIẾP ĐÓN
- Lạy Chúa tôi. - Ellie thốt lên. Cả sáu người đang nhìn vào con vật cao quá mấy ngọn cây. - Lạy Chúa tôi.
Ý nghĩ đầu tiên của cô là khủng long là một con thú đẹp một cách kỳ lạ. Sách vở miêu tả khủng long là loài thú to ngoại khổ, thấp, mập mạp, nhưng con thú cổ dài này khi cử động có một vẻ duyên dáng, gần như cao quý. Và rất nhanh nhẹn - Không một chút vẻ chậm chạp hoặc đần độn. Con sauropod cảnh giác nhìn chăm chú vào đám người và cất lên một tiếng rống nghe như tiếng rống của voi. Một lát sau, một chiếc đầu thứ hai cất cao lên khỏi đám lá, và rồi đầu thứ ba, đầu thứ tư.
- Lạy Chúa tôi. - Ellie lại thốt lên.
Gennaro không nói được lời nào. Ông ta đã thấy những gì muốn thấy - ông đã biết trong mấy năm nay - nhưng vì những lý do này khác, ông không bao giờ tin là việc đó sẽ xảy ra, và bây giờ ông ta choáng người đến sững sờ. Khả năng kinh khủng của kỹ thuật di truyền mới, mà trước đây ông cho là rườm rà trong những cuốn sách dùng toàn ngôn từ khó hiểu - cái khả năng ấy bây giờ bỗng trở nên rõ ràng trước mắt ông. Những con vật to ghê gớm! Đúng là khổng lồ! Như tòa nhà! Và thật nhiều! Những con khủng long quỷ quái có thật! Có thật sự như ta muốn có.
Gennaro nghĩ: chúng ta sắp có cả một kho tiền trên đảo này. Một kho tiền.
Ông ta cầu trời cho hòn đảo được bình yên.
Grant đứng trên con đường mòn bên sườn đồi, sương mù phả vào mặt, nhìn chăm chú vào những chiếc cổ xám vươn cao quá những cây cọ dừa. Ông cảm thấy chóng mặt, dường như đất sườn đồi đang trượt xuống, chao đảo. Ông cảm thấy khó thở. Vi ông đang nhìn vào cái gì đó ông không bao giờ chờ được thấy trong đời mình. Nhưng ông đang thấy nó.
Những con thú trong đám rừng sương mù là những con apatosaur cỡ trung bình. Trí óc đang kinh ngạc của ông hiện ngay ra những liên hệ về các kỷ: loài khủng long ăn cỏ miền Bắc Mỹ thuộc hậu kỷ Jurassic. Có tên chung là "brontosaur". Đầu tiên được phát hiện do nhà cổ sinh vật học E.D.Cope ở bang Montana vào năm 1876. Chủng loại này liên quan với thời gian cấu tạo địa tầng Morrison ở Colorado, ở Utah và ở Oklahoma. Gần đây hai nhà cổ sinh vật học xếp chúng vào chủng loại diplodocus dựa vào bề ngoài hộp sọ. Brontosaur vẫn thường được tin là sống phần lớn cuộc sống của chúng ở các đầm nước để giúp nâng đỡ thân hình to lớn của chúng. Mặc dầu con vật này rõ ràng không ở trong nước, nó đang cử động nhanh nhẹn, chiếc đầu và cổ cất cao qua các đọt cọ dừa với phong cách linh hoạt - một phong cách linh hoạt đáng ngạc nhiên.
Grant bắt đầu cười. Hammond hỏi, giọng lo lắng:
- Gì vậy? Có chuyện gì bất ổn?
Grant chỉ lắc đầu, và tiếp tục cười. Ông không thể nào nói cho họ hiểu điều kỳ lạ là dù ông chỉ mới thấy lũ thú có vài giây, nhưng ông đã bắt đầu thừa nhận chúng, và dùng những quan sát của mình để trả lời những câu hỏi đã dài ngày ở công trường khai quật.
Ông vẫn còn đang cười tiếp khi nhìn thấy chiếc cổ thứ năm và thứ sáu ngóng cao lên khỏi đám cọ dừa. Mấy con sauropod ngắm đám người đi đến. Chúng làm Grant nghĩ đến những con hươu cao cổ to quá khổ - mấy con thú này cũng có cái nhìn bằng lòng, hơi ngốc nghếch.
Malcolm nói:
- Tôi cho chúng là những con vật điện tử. Chúng rất giống những con thú thật.
Hammond:
- Ông tin thế ư? Chúng thật đấy. Chúng là những con thú thật sự, không phải sao?
Từ phía xa xa, họ lại nghe tiếng rống. Đầu tiên do một con vật cất lên, rồi những con khác cất tiếng rống nối tiếp. Ed Regis nói:
- Đấy là tiếng kêu của chúng. Hoan nghênh chúng ta viếng đảo.
Grant đứng lắng nghe một chút, mê mẩn.
Rồi đám người đi tiếp xuống đồi. Hammond nói:
- Có lẽ quý vị muốn biết những gì tiếp theo nữa. Chúng tôi đã sắp đặt một thời khóa biểu cho chuyến viếng thăm đảo của quý vị với đầy đủ tiện nghi, và một chuyến tham quan các con thú trong công viên vào xế chiều nay. Tôi sẽ theo quý vị đi ăn trưa, và sẽ trả lời bất cứ câu hỏi nào của quý vị vào lúc đó. Bây giò xin mời quý vị theo ông Regis…
Đám người đi theo Ed Regis đến những tòa nhà gần nhất. Trên cao, ngang qua con đường mòn, một tấm bảng sơn to viết bằng tay: "Nhiệt liệt đón chào quý khách viếng thăm công viên kỷ Jura".
(Bạn đang đọc truyện tại KenhTruyen.Wap.Sh chúc các bạn vui vẻ)
Họ đi vào một con đường, dưới những tán lá cọ dừa đan nhau thành một mái vòm xanh dẫn đến tòa nhà khách chính. Khắp nơi là những khu trồng cây trải dài làm mọi người tăng thêm cảm giác là họ đang đi vào một thế giới mới, một thế giới nhiệt đới thời tiền sử, để lại thế giới bình thường sau lưng.
Ellie nói với Grant:
- Lũ thú trông khá tuyệt.
- Vâng. Tôi muốn đến gần xem chúng. Tôi muốn cầm chân chúng dơ lên xem mấy ngón chân, sờ vào da chúng, banh hàm chúng ra quan sát các hàm răng. Chưa làm được thế thì tôi chưa tin chắc được. Nhưng đúng, trông chúng thật tuyệt.
Malcolm:
- Tôi chắc là chúng làm thay đổi lĩnh vực của ông chút ít.
Grant gật đầu:
- Thay đổi tất cả ấy chứ.
Một trăm năm mươi năm nay, kể từ lúc phát hiện được đống xương không lồ ở châu Âu, việc nghiên cứu khủng long chỉ là công việc suy đoán có tính khoa học. Ngành cổ sinh vật học về bản chất giống như công việc thám tử tìm kiếm đầu mối ở đám xương hóa thạch và lần theo dấu vết của những con thú khổng lồ biến mất từ lâu. Nhà cổ sinh vật học giỏi nhất là người có thể đưa ra những suy đoán thông minh nhất.
Toàn bộ các cuộc bàn cãi của ngành cổ sinh vật đều tiến hành trong lối suy đoán này - kể cả các cuộc cãi vã cay cú, trong đó Grant là khuôn mặt chủ yếu, rằng khủng long có phải loại máu lạnh hay không.
Các khoa học gia xếp khủng long vào loài bò sát có máu lạnh, lấy nhiệt cần thiết cho cơ thể từ môi trường chúng sống. Một con động vật có vú có thể biến đổi thức ăn làm sinh ra nhiệt cho cơ thể, nhưng một con bò sát thì không làm thế được. Cuối cùng một nhóm các nhà nghiên cứu - đứng đầu là giáo sư Jhon Ostrom và Robert Bakker ở đại học Yale - cho rằng quan điểm "khủng long là loài có máu lạnh không được giải thích những phát hiện tử hóa thạch. Theo cách suy diễn cổ điển, họ rút ra những kết luận: các loài thằn lằn và bò sát chân có móng cong bám vào mặt đất để lấy nhiệt. Chúng không có khả năng đứng trên hai chi sau hơn vài giây. Nhưng khủng long đứng thẳng trên hai chi sau, và nhiều loại đi thẳng bằng hai chi sau. Trong số các loài thú, dáng đứng thẳng chỉ có ở các loài thú có vú máu nóng và loài cầm. Vì thế, dáng đứng thẳng của khủng long cho ta ý niệm chúng có máu nóng.
Kế đến, họ khảo sát thức ăn, tính toán áp lực cần thiết để đẩy máu lên đầu qua chiếc cổ dài hơn năm mét của một con brachiosaur, và kết luận rằng nó chỉ có thể thực hiện được nhờ một quả tim máu nóng có bốn tâm thất.
Họ xem xét đường đi ăn, những dấu chân hóa thạch để lại trên bùn, và kết luận rằng khủng long chạy nhanh như người, một hoạt động nhanh nhẹn như thế chỉ có ở loài máu nóng. Họ đã tìm thấy những vết tích khủng long ở phía trên Bắc cực, một môi trường lạnh không thể tưởng tượng được đối với loài bò sát, và những khảo cứu mới về sinh hoạt quần thể, phần lớn dựa trên công trình riêng của Grant, cho thấy khủng long có một cuộc sống quần thể phức tạp, và biết nuôi con, mà loài bò sát không có.
Cuộc tranh luận máu nóng máu lạnh kéo dài trong mười lăm năm trước khi có sự thừa nhận khủng long là một loài thú cử động nhanh nhẹn, nhẹ nhàng, nhưng không phải là không có những tức khí kéo dài. Tại các hội nghị, nhiều đồng sự không thèm nói chuyện với nhau.
Nhưng giờ đây, nếu khủng long có thể tái sinh được - thì lĩnh vực khảo sát của Grant sắp thay đổi. Ngành cổ sinh vật học khảo cứu khủng long đã chấm dứt. Các phòng bảo tàng với những bộ xương khổng lồ cùng các đàn học sinh nhỏ om sòm chỉ trỏ, các phòng thí nghiệm với những khung xương, những bài khảo cứu, báo chí… tất cả sắp chấm dứt.
Malcolm:
- Hình như anh không bị bất ngờ?
Grant lắc đầu:
- Việc này đã từng được bàn đến. Nhiều người nghĩ là nó sẽ đến. Nhưng không quá sớm thế này.
Malcolm cười:
- Câu chuyện chủng loại của chúng ta. Mọi người biết nó sẽ đến, nhưng không quá sớm đến thế.
Khi đi xuống con đường mòn, họ không còn thấy mấy con khủng long nữa, nhưng vẫn nghe chúng đang hí lên nhẹ nhàng ở xa xa. Grant:
- Thắc mắc duy nhất của tôi là, họ lấy được DNA ở đâu.
Grant biết rõ suy nghĩ nghiêm túc của các phòng thí nghiệm ở Berkeley, ở Tokyo, và ở London, là rồi ra có thể tái sinh một con thú tiệt giống như con khủng long - nếu họ có thể lấy được một số DNA khủng long. Vấn đề là tất cả các khủng long đều hóa thạch, và sự hóa thạch hủy diệt phần lớn DNA, thay vào đấy bằng chất vô cơ. Dĩ nhiên, nếu một con khủng long đông lạnh, hay bị chôn vùi dưới một đồng lầy, hay được ướp xác trong một môi trường sa mạc, thì DNA của nó có thể lấy lại được. Nhưng không một ai tìm được một con khủng long ở một trong những tình trạng như thế. Vì vậy việc tái sinh là không thể thực hiện được. Không có cái gì để mà tái sinh. Tất cả kỹ thuật di truyền hiện đại đều vô dụng. Cũng giống như một tấm giấy nhận được bản sao màu nhưng không có cái gì để sao. Ellie nói:
- Ông không thể tái tạo được con khủng long thật, vì không thể có được DNA của khủng long.
- Trừ khi có một cách mà chúng ta chưa nghĩ tới.
- Cách gì? - Ellie hỏi.
Grant đáp:
- Tôi không biết.
Họ đến một bể bơi, nước bể chảy xuống một loạt các thác nước và hồ đá nhỏ hơn. Toàn vùng trồng những cây dương xỉ to lớn. Regis nói:
- Quý vị có thấy kỳ diệu không. Nhất là những ngày sương mù như hôm nay, rửng cây này thật sự tạo nên không khí tiền sử. Đây là những cây dương xỉ của kỷ Jurassic.
Ellie dừng lại nhìn đám dương xỉ kỹ hơn. Đúng như Regis nói, cây Serenna veriformans, một loại cây thấy rất nhiều ở các hóa thạch có tuổi hơn hai triệu năm, bây giờ còn nhiều ở các vùng đất ẩm Brazil và Columbia. Những kẻ trồng loại dương xỉ này cạnh các ao hồ rõ ràng không biết mầm cây veriformans chứa một chất độc chết người, chất aikaloid beta-carboline. Ngay cả sờ vào những cọng lá xanh tươi hấp dẫn cũng làm nhiễm độc được, và nếu một đứa trẻ ăn một nhúm lá, hầu như chắc chắn là nó sẽ chết - mức độc của cây này lớn hơn cây oleauder đến năm mươi lần.
Con người quá ngây thơ về cây cối, Ellie thầm nghĩ. Họ chỉ chọn cây theo bề ngoài, như chọn một bức tranh thích hợp để treo tường. Không bao giờ con người nghĩ rằng cây cối thực sự là những vật sống, chúng cũng vận động để hoàn thiện các chức năng sống của chúng như thở, tiêu hóa, bài tiết, tái tạo và phòng vệ.
Ellie biết rằng, với lịch sử quả đất, thực vật cũng đã cạnh tranh sinh tồn để phát triển, và trong một số trường hợp, tàn khốc vô cùng. Chất độc trong cây Serena veriformans là một ví dụ nhỏ về chất arsenal, một chất độc phức tạp mà cây cối đã "bào chế" để làm vũ khí bảo vệ. Còn các chất terpene mà cây tẩm vào đất để đánh bả đất đai, gây độc cho những cây cùng cạnh tranh sinh tồn. Chất alkaloid làm cho vỏ cây trở nên bất khả xâm phạm đối với côn trùng, với các loài thú ăn cây cỏ (và cả trẻ con nữa); chất pheromone cây dùng để thông tin hên lạc với nhau. Khi một cây thông douglass bị một đàn côn trùng có cánh tấn công, cây lập tức tổng hợp ra một chất hóa học "chống tiêu hóa", - và các cây douglass ở các vùng khác rất xa trong khu rừng cũng đồng thời tiết ra chất ấy.
Những người tưởng rằng sự sống trên trái đất chỉ là những động vật chuyển động trong khung cảnh thực vật bất động đã hiểu lầm nghiêm trọng về những gì họ thấy. Khung cảnh thực vật ấy luôn biến động. Cây cỏ mọc lên, di chuyển, luồn lách, đấu tranh với nhau để chiếm lấy ánh nắng mặt trời; và chúng hoạt động liên tục cùng với muông thú, chống lại sự tấn công của thú vật bằng vỏ xù xì hoặc gai góc, đánh bả một số thú khác; hoặc cung cấp thức ăn cho một số động vật để chúng thuận lợi trong việc tái sản xuất, rải rắc phấn hoa và hạt mầm. Đấy là một quá trình phức tạp và năng động mà Ellie bao giờ cũng tìm thấy ở đấy niềm say mê.
Nhưng nếu trồng các cây dương xỉ có chất độc chết người này tại các bờ ao đầm thì quả là các tay thiết kế công viên chưa đủ cẩn thận cần phải có.
Regis tiếp tục giới thiệu:
- Không kỳ diệu sao, thưa quý vị? Nếu nhìn tới trước, quý vị sẽ thấy khu nhà nghỉ Safari của chúng tôi. Đấy là nơi nghỉ của tất cả quý vị khi lưu lại công viên kỷ Jura.
Ellie thấy một khu nhà thấp với một dãy mái kính hình chóp.
Gian phòng của Grant xây bằng đá màu beige, đồ đạc bày biện màu xanh, kiểu dáng có đường nét rửng rú. Các phòng chưa xây xong. Những khúc gỗ trong phòng vệ sinh, những mẩu dây điện trên nền nhà. Một ti vi đặt ở góc phòng với một tấm bìa trên máy:
Kênh 2: Vùng đồi nuôi hypsilophodont.
Kênh 3: Khu vực nuôi triceraptor.
Kênh 4: Khu đầm lầy nuôi sauropod.
Kênh 5: Khu vực loài ăn thịt.
Kênh 6: Khu phía nam nuôi stegosaurus.
Kênh 7: Thung lũng nuôi velociraptor.
Kênh 8: Đỉnh núi nuôi pterosaur.
Ông thấy các tên gọi có vẻ hấp dẫn. Grant bật máy nhưng chỉ thấy các bản thống kê. Ông tắt và đi vào phòng ngủ thảy chiếc vali nhỏ lên giường. Phía trên giường là một mái hình tháp bằng kính cho ánh sáng trời rọi xuống. Mái tạo cảm giác ở trang trại, như ngủ dưới bầu trời sao. Chỉ tiếc một điều là mái được bảo vệ bằng những thanh sắt to khiến các bóng đen của chúng nằm ngang dọc trên giường.
Grant dừng lại. Ông đã đọc qua và xem bản thiết kế khu nhà nghỉ, nhưng ông không nhớ đến những thanh sắt trên mái kính. Thực tế, các thanh sắt này thêm vào khiến cho mái có vẻ thô lỗ. Đấy là một khung với các thanh sắt xếp thành ô vuông hàn chắc với nhau nằm bên ngoài lớp kính. Hơi ngạc nhiên, Grant đi tử phònh ngủ qua phòng khách. Cửa sổ phòng ông nhìn ra bể bơi.
Ellie bước vào phòng, nhìn ông:
- Giáo sư nhớ là các cây thông đuôi chồn ấy độc lắm đấy. Nhưng ông có chú ý các phòng không?
- Họ đã thay đổi các bản thiết kế ban đầu.
- Vâng, tôi cũng nghĩ vậy. Các cửa kính đều có các khung sắt đặt bên ngoài cho kiên cố thêm. Các cửa lớn gài bằng những thanh sắt. Điều đó thật ra quá mức cần thiết. Và giáo sư có thấy hàng rào khi chúng ta vào không?
Grant gật đầu. Toàn bộ khu nhà nghỉ đều nằm trong một vòng rào với các song sắt dày mấy centimet. Hàng rào cố tạo vẻ thanh nhã, sơn đen trông cho có vẻ là một hàng rào sắt thường, nhưng không che giấu được độ dày của các thanh sắt và chiều cao đến ba mét rưỡi của nó.
- Tôi cho rằng hàng rào này cũng không có trong bản thiết kế. - Ellie nói tiếp - Trông như họ đang biến khu nhà nghỉ này thành một đồn lũy.
Grant nhìn đồng hồ tay:
- Thế nào chúng ta cũng phải hỏi lý do tại sao. Mười phút nữa thì chuyến tham quan bắt đầu.
KHI KHỦNG LONG NGỰ TRỊ QUẢ ĐẤT
Họ tụ tập trong nhà khách hai tầng, xây toàn bằng kính với các cột sắt có phủ lớp sơn chống rỉ, các đòn tay và khung nâng kiên cố. Grant thấy nhà được cấu trúc với kỹ thuật cao cấp. Một thính phòng nhỏ mà ngay lối vào đứng sừng sững một robot khủng long bạo chúa - con tysannosaurus rex - với dáng đe dọa. Bên trong có một khu trưng bày với tấm bảng: KHI KHỦNG LONG NGỰ TRỊ QUẢ ĐẤT. Xa hơn nữa là các khu trưng bày khác: KHỦNG LONG LÀ CON THÚ GÌ? và QUẢ ĐẤT Ở KỶ MESOZOIC. Nhưng những vật trưng bày chưa chuẩn bị xong, dây điện, dây cáp nằm ngổn ngang trong phòng. Gennaro leo lên sân khấu nói chuyện với Grant, Ellie và Malcolm. Giọng ông ta vang khắp phòng. Hammond ngồi phía sau, tay khoanh trước ngực. Gennaro nói:
- Chúng ta sắp đi một vòng xem các thứ. Tôi chắc rằng ông Hammond và cộng sự sẽ chỉ cho chúng ta mọi việc. Trước khi đi, tôi muốn nhắc lại là tại sao chúng ta đến đây, và những gì tôi cần quyết định trước khi chúng ta rời đảo. Về cơ bản, như quý vị đã nhận thấy, đây là một chỗ có các loại khủng long tái sinh theo kỹ thuật di truyền được nuôi giữ trong một khung cảnh như một công viên thiên nhiên, tạo thành một địa điểm thu hút du khách. Đảo chưa khai trương, nhưng sẽ mở cửa trong vòng một năm nữa. Và bây giờ câu hỏi của tôi là một câu đơn giản thôi. Đảo này có an toàn không? Có an toàn cho khách đến thăm, và có nuôi giữ khủng long một cách an toàn không?
Gennaro nói tiếp:
- Có hai sự việc làm chứng cứ mà chúng tôi cần xét đến. Trước hết là tiến sĩ Grant đã có nhận dạng được một con khủng long chưa từng biết đến trước đây ở Costa Rica. Con khủng long này chỉ là những phần còn lại của một cơ thể không toàn vẹn. Nó được phát hiện vào khoảng tháng bảy năm nay, sau khi được xem là nó đã cắn một bé gái người Mỹ. Tiến sĩ Grant sẽ kể với quý vị sau. Những chứng cứ ấy đang nằm ở một phòng thí nghiệm New York và chúng tôi đã yêu cầu gửi đến đây bằng máy bay để chúng ta có thể trực tiếp xem xét. Còn một chứng cứ thứ hai.
- Costa Rica, - Gennaro tiếp tục - có một hệ thống y tế công cộng tuyệt hảo, theo dõi mọi loại dữ kiện. Vào đầu tháng ba, có những báo cáo về các con kỳ nhông hoặc kỳ đà cắn trẻ con trong nôi - và tôi có thể thêm là, cắn cả người lớn đang ngủ. Những vụ kỳ nhông cắn này được báo cáo từ những ngôi làng ven biển xa xôi, từ Ismaloya đến Puntarenas. Sau tháng ba, các vụ cắn không còn được báo cáo nữa. Tuy nhiên tôi có một biểu đồ của sở y tế San José về tử vong của trẻ em tại các thị trấn nằm trên bờ biển phía tây.
Gennaro lấy ra một biểu đồ biểu diễn sự biến thiên tử vong của trẻ em từ tháng hai đến tháng bảy và giải thích:
- Xin quý vị chú ý vào hai đặc điểm của biểu đồ này. Thoạt tiên, tử suất của trẻ em thấp vào các tháng giêng và tháng hai, rồi lên cao vào tháng ba, thấp dần vào tháng tư. Nhưng từ tháng năm trở đi thì lên rất cao cho đến tháng bảy, là tháng mà bé gái Mỹ bị cắn. Sở y tế cảm thấy có điều gì đó ảnh hưởng đến số tử vong của trẻ, và điều đó không thấy nhắc đến trong các báo cáo. Đặc điểm thứ hai là đường biểu diễn đưa lên đến đỉnh cao nhất từng hai tuần một, như gợi lên một hiện tượng gì đó luân phiên hoạt động. Bây giờ, quý vị có thể…
Malcolm:
- Tôi sẽ giải thích điều ấy cho ông.
- Ông giải thích được? - Gennaro hỏi.
- Vâng. Trước hết, các con thú có thể đã thoát ra khỏi đảo.
Hammond ở đằng sau lên tiếng:
- Ồ chuyện này…
- Thứ đến, biểu đồ của sở y tế hầu như không liên quan gì đến các con thú đã trốn thoát được.
Grant hỏi:
- Làm sao ông biết dược?
- Quý vị sẽ nhận thấy rằng biểu đồ có điểm cao thấp xen kẽ. Đấy là tính chất của nhiều hệ thống phức tạp. Ví như nước nhỏ giọt ra tử vòi nước. Nếu quý vị chỉ mở vòi một tí thôi, quý vị sẽ thấy nước giọt từng giọt đều đặn. Nếu mở vòi thêm một chút nữa quý vị sẽ có những giọt nước lớn nhỏ xen kẽ nhau Đấy là do sự hỗn loạn của áp suất gây ra. Sự hỗn loạn gây ra sự xen kẽ. Và quý vị sẽ có một biểu đồ cao thấp xen kẽ như thế này đối với bất cứ loại bệnh mới phát nào.
Grant:
- Nhưng sao ông biết không phải do khủng long thoát khỏi đảo.
Malcolm:
- Vì đấy là tính chất của một biểu đồ không liên tục. Phải hàng trăm khủng long thoát khỏi đảo mới gây nên tình trạng như biểu đồ mới ghi nhận. Mà tôi không tin là có được hàng trăm khủng long trốn khỏi đảo. Vì thế, tôi kết luận là có một hiện tượng nào khác, như một bệnh cúm mới, đã gây nên sự biến thiên của biểu đồ
Gennaro:
- Nhưng ông cho rằng có khủng long thoát khỏi đảo.
- Vâng có thể như thế.
- Tại sao?
- Vì những gì quý vị đang cố thực hiện ở đây. Xem nào, đảo này là một cố gắng tái tạo lại môi trường thiên nhiên như trong quá khứ. Tạo nên một thế giới riêng cách biệt trong đó các sinh vật tiệt giống sinh sống tự do. Đúng vậy không?
- Đúng.
- Nhưng theo quan điểm của tôi, một việc như thế không thể thực hiện được. Toán học đã có bằng cứ rõ ràng đến nỗi không còn phải tính toán. Rõ ràng như khi tôi hỏi quý vị, với một tỷ đô la lợi tức liệu quý vị có trả thuế không. Quý vị không cần phải lôi máy tính bỏ túi ra tính toán. Quý vị biết ngay là phải trả thuế thôi. Và, tương tự, tôi biết một cách rất rõ là người ta không thể nào sao lại thiên nhiên theo cách này, hoặc hy vọng là tách biệt nó.
- Tại sao không? Chúng ta cũng đã có những sở thú…
- Sở thú không tái tạo lại thiên nhiên. - Malcolm giải thích - Chúng ta hãy nói rõ hơn điều này. Các sở thú lấy thiên nhiên sẵn có và chỉ hơi thay đổi để tạọ những nơi ở cho thú. Thậm chí những thay đổi nhỏ như thế cũng thất bại. Lũ thú trốn thoát đều đều. Nhưng công viên này không theo kiểu một sở thú. Nó đang cố gắng thực hiện một tham vọng xa hơn nhiều. Thực hiện một điều gì đó tương tự như một trạm không gian trên quả đất.
Gennaro lắc đầu:
- Tôi không hiểu.
- Vâng, rất đơn giản. Trừ không khí ra, mọi thứ dính líu trên đảo này đều bị cách ly. Thú vật nuôi giữ ở đây không bao giờ sống lẫn với hệ sinh thái lớn hơn. Chúng không bao giờ thoát khỏi đây.
Hamrnond khịt mũi:
- Và chúng chưa bao giờ thoát được.
Malcolm nói, rõ ràng:
- Một sự cách ly như thế là không thể tồn tại được. Chỉ vì không thể thực hiện được.
- Có thể thực hiện được. Rõ là ông không biết ông đang nói điều gì. Ông là một anh chàng ba hoa đấy. - Hammond nói, đứng dậy rời khỏi phòng.
Gennaro:
- Thưa quý vị, thưa quý vị…
Malcolm:
- Tôi rất tiếc nhưng vấn đề là vậy. Điều mà chúng ta gọi là "thiên nhiên" thật là một hệ thống rắc rối, tinh vi quá sức hiểu của chúng ta. Chúng ta tạo nên một hình ảnh đơn giản của tạo vật và làm sai cả những gì liên quan đến nó. Tôi không phải là một nhà môi trường học, nhưng chúng ta phải cố biết những gì chúng ta chưa biết. Chúng ta đã xây đập Aswam và tuyên bố là nó sẽ làm cho đất đai màu mỡ. Nhưng thật ra, nó đã tàn phá vùng châu thổ sông Nile, sản sinh thực vật ký sinh, tàn phá kinh tế Ai Cập. Chúng ta xây dựng…
Gennaro:
- Xin lỗi. Hình như tôi nghe thấy tiếng trực thăng. Đấy có thể là mẫu nghiệm cho tiến sĩ Grant. - ông ta ra khỏi phòng, mọi người đều ra theo.
Tại chân núi, Gennaro đang hét lớn hòng át tiếng trực thăng, các đường gân cổ trương to:
- Ông đã làm cái gì thế này? Ông đã mời ai hả?
Hammond:
- Hãy bình tĩnh đã nào.
Gennaro hét lớn:
- Ông mất trí rồi đấy à?
- Nào, để xem nào. - Hammond cố bình tĩnh - Tôi cho là chúng ta cần phải nói rõ vấn đề…
- Không, không. Ông phải nói rõ vấn đề chứ không có chúng ta nào cả. Đây đâu phải là một cuộc đi chơi với gia đình. Đây không phải là một đợt nghỉ cuối tuần…
- Đây là đảo của tôi. Và tôi có thể một ai mà tôi muốn mời.
- Đây là một cuộc điều tra nghiêm túc hòn đảo của ông vì các nhà đầu tư vào đây cho rằng đảo đang ở ngoài vòng pháp luật. Chúng tôi nghĩ rằng đây là một nơi rất nguy hiểm và…
- Anh sẽ chẳng dẹp công việc của tôi được, Gennaro.
- Tôi sẽ dẹp nếu tôi thấy cần phải dẹp.
- Đây là một nơi an toàn, cho dù cái tay toán học chết rấp kia nói gì đi nữa.
- Đảo không an toàn…
- Tôi sẽ chứng minh là rất an toàn.
- Và tôi muốn ông cho chúng nó trở lại ngay lập tức vào chiếc trực thăng kia.
- Không thể được, - Hammond chỉ về phía những đám mây - trực thăng đã bay xa rồi. - Và thực vậy, tiếng động cơ trực thăng không còn nghe thấy nữa.
- Đồ máy bay chết rấp. - Gennaro bực tức - Ông có thấy là ông đang liều lĩnh một cách không cần thiết không?
- Chuyện đó chúng ta bàn sau. Bây giờ tôi không muốn làm rối trí mấy đứa trẻ.
Grant quay lại, và thấy hai đứa bé đang đi xuống dốc đồi, dẫn đầu là Regis. Đấy là một bé trai mang kính trắng vào khoảng mười một tuổi, và một bé gái nhỏ hơn vài tuổi, có lẽ bảy hay tám tuổi mái tóc vàng hoe dưới mũ lưỡi trai thể thao, một cặp găng chơi bóng ném đeo lủng lẳng dưới vai. Hai đứa trẻ từ chỗ bãi đáp trực thăng đi từng bước một xuống đồi, rồi dừng lại cách Gennaro và Hammond một quãng.
- Ôi Chúa ơi - Gennaro nói nhỏ qua hơi thở.
- Nào, cứ bình tĩnh đi nào, - Hammond nói - cha mẹ chúng đang lo chuyện ly dị, và tôi muốn chúng vui cuối tuần ở đây.
Cô bé vẫy tay:
- Ê. Chào ông nội. Bọn cháu đến dây.
-- http://viptruyen.pro --
C
ậu bé Tim Murphy nhận ra ngay có điều gì đó bất ổn. Ông nội đang cãi cọ với một người trẻ hơn, mặt đỏ gay, đứng đối diện với nội. Và còn mấy người lớn tuổi khác, đứng đằng sau, trông có vẻ bối rối. Cô bé Lex cũng cảm thấy có sự căng thẳng, vội dừng lại, tung qủa bóng lên chụp bắt. Cậu bé phải đẩy em:
- Tới đi chứ Lex.
- Anh Tim đi trước đi.
- Đừng có nhút nhát.
Lex nhìn anh, nhưng Regis đã vui vẻ nói:
- Để chú giới thiệu hai đứa với mọi người, và chúng ta có thể đi theo họ xem mọi thứ.
Lex e ngại:
- Thôi, cháu không đi đâu.
- Để chú giới thiệu cháu trước. - Và Regis bắt đầu. Trước hết với ông nội, Hammond hôn hai đứa. Rồi với người mà nội đang cãi cọ. Ông này dáng chắc khỏe, tên là Gennaro. Phần giới thiệu còn lại làm Tim lờ mờ nhớ đến điều gì đó. Có một cô tóc vàng mặc đồ soóc một người đàn ông râu quai nón mặc quần Jeans và áo sơ mi kiểu Hawaii. Ông này trông có vẻ là một người chuyên hoạt động ngoài trời. Rồi một anh mập mạp đến đảo làm chuyện gì đó với mấy cái computer. Cuối cùng là một người gầy gầy mặc đồ đen, không bắt tay chúng mà chỉ gật đầu. Tim cố lục lại trí nhớ khi nhìn vào chân của cô tóc vàng, và đột nhiên nhớ ra là cậu đã biết người đàn ông râu quai tròn là ai.
Lex bảo anh:
- Miệng anh đang há hốc ra đấy.
- Tao biết ông ấy. - Tim nói.
- Ồ, thì chắc chắn rồi. Anh vừa mới được giới thiệu đấy.
- Không phải, tao có sách của ông ấy.
Người râu quai nón hỏi:
- Sách gì, Tim?
- Thưa bác, cuốn Lost World of Dinosanura.
Lex cười khúc khích:
- Bố nói óc anh Tim chứa toàn khủng long.
Tim không nghe cô em nói gì. Cậu đang nghĩ đến những gì mình biết về ông Alan Grant. Ông Grant này là người bênh vực lý thuyết cho rằng khủng long là loài máu nóng. Ông đã thực hiện nhiều vụ khai quật tại một nơi có tên là Đồi Trứng ở bang Montana, một địa điểm nổi tiếng vì có quá nhiều trứng khủng long. Grant đã tìm thấy phần lớn số trứng khủng long chưa từng được phát hiện. Ông cũng là người vẽ minh họa, và đã vẽ các hình cho sách của mình. Người râu quai nón nói:
- Đầu chứa toàn khủng long? Thế thì bác với cháu giống nhau. Đầu bác cũng toàn khủng long.
Bé Lex:
- Bố nói lũ khủng long đần độn lắm. Bố bảo anh ấy nên ra ngoài trời nhiều và chơi các môn thể thao.
Tim cảm thấy hơi ngượng. Cậu bảo em:
- Tao thấy là mày phải đi theo họ rồi chứ?
- Một phút nữa đã.
- Rồi mày phải chạy theo cuống lên.
Bé Lex đứng tay chống nạnh, vênh mặt, bắt chước điêu bộ khiêu khích của mẹ:
- Em không phải là loại người mà ai bảo chi cũng nghe đâu.
Regis nói với mọi người:
- Thưa quý vị xin mời tất cả hãy trở lại nhà khách để chúng ta có thể bắt đầu chuyến tham quan.
Mọi người bắt đầu bước đi. Tim nghe ông Gennaro nói nhỏ vào tai ông nội: "Tôi có thể giết ông được vì chuyện này đấy", rồi Tim nhìn lên và thấy tiến sĩ Grant đã bước theo bên cạnh.
- Cháu mấy tuổi rồi, Tim?
- Dạ, mười một.
- Cháu thích khủng long từ lúc nào?
Tim nuốt nước miếng:
- Mới đây thôi. - Cậu cảm thấy lúng túng khi nói chuyện với tiến sĩ Grant - Chúng cháu thỉnh thoảng có đến viện bảo tàng, và cháu nói về khủng long với ba cháu.
- Ba cháu không thích khủng long à?
Tim gật đầu, và kể cho Grant nghe chuyến thăm viện bảo tàng lịch sử thiên nhiên mới đây của gia đình. Ba cậu nhìn vào một bộ xương và nói : "Chà, bộ xương to ghê".
Tim đã nói với ba: "Không to ghê đâu ba. Mới cỡ trung bình thôi. Đấy là con comptosaurus".
"Ồ ba không biết. Ba thấy to ghê quá."
"Thế mà nó chưa trưởng thành hoàn toàn đấy, ba".
Ba cậu nhìn một bên bộ xương: "Nó thuộc kỷ nào, Jurassic?"
"Không phải đâu. Kỷ Cretaceous."
"Cretaceous à. Hai kỷ này cách nhau bao lâu?"
"Chỉ vào khoáng một trăm triệu năm.", Tim nói.
"Kỷ Cretaceous trước à?"
"Không, ba. Jurassic trước chứ."
Ba cậu bảo: "Thế nhưng, đối với bố thì nó hết sức to rồi đấy." ông bước lui và quay sang Tim chờ sự đồng ý. Cậu bé biết là mình nên đồng ý với bố vì thế cậu lẩm bẩm một điều khác. Và hai cha con đi tiếp xem nơi khác.
Tim đứng trước một bộ xương - một con tyrannosaụrus rex, một mãnh thú săn mồi mạnh chưa từng có. Cuối cùng, ba cậu hỏi: "Con nhìn gì đấy?"
"Con đếm đốt sống."
"Đốt sống?"
"Xương sống lưng ấy."
"Ba biết đốt sống là gì rồi.", ba nói vẻ khó chịu. ông đứng với cậu một lúc rồi hỏi "Con đếm làm gì?"
"Con thấy các đốt sống này không đúng. Con tyrannosaurus đúng ra cho có ba mươi bảy đốt sống ở đuôi thôi. Con này có nhiều hơn."
Ba cậu nói: "Con có ý bảo là viện bảo tàng có một bộ xương không đúng. Ba không thể tin được."
"Bộ xương này không đúng đấy."
Ba cậu bỏ về phía người trông nom viện bảo tàng ở góc. Mẹ cậu hỏi: "Con làm phiền gì ba thế?"
Tim nói: "Con chẳng làm gì cả. Con chỉ nói bộ xương khủng long không đúng như thật, thế thôi."
Và rồi ba cậu quay lui với vẻ mặt lạ lùng, vì dĩ nhiên là người coi bảo tàng bảo là bộ xương có quá nhiều đốt sống ở đuôi. Ba cậu nói: "Làm sao con biết được?"
"Con đọc sách."
"Chuyện lạ đấy, chú nhỏ." Ông ta đặt tay lên vai cậu, ấn nhẹ. "Con biết được có bao nhiều đốt sống ở cái đuôi ấy. Ba chưa từng thấy đứa nào thế. Óc con đúng là chứa toàn khủng long."
Và rồi ba cậu nói ông muốn xem hiệp hai của trận bóng gậy trên ti vi. Lex nói bé cũng thích, và cả nhà rời viện bảo tàng. Tim không được xem thêm con khủng long nào nữa.
Bao nhiêu việc lộn xộn vẫn thường xẩy ra trong gia đình, Tim cố nhớ lại. Bây giờ, ba cậu đang lo chuyện li dị với mẹ cậu, mọi việc có lẽ sẽ khác hẳn. Ba cậu đã bỏ đi khỏi nhà, dù vậy, Tim lấy làm lạ là mình lại thích thế. Cậu nghĩ là mẹ có một ông bạn, nhưng cậu không chắc được, và dĩ nhiên cậu không bao giờ nhắc đến điếu ấy với Lex. Em gái cậu rất buồn khi phải xa ba, và trong mấy tuần gần đây, cô bé trở nên bẳn tính đến nỗi…
Grant hỏi Tim:
- Có phải bộ xương số 5027 không?
- Bác nói sao?
- Con tyrannosaurus ở viện bảo tàng ấy, có phải số 5027 không?
- Phải. Sao bác biết?
Grant cười:
- Họ vừa bàn chuyện làm sao mà giữ nó cho được nhiều năm. Nhưng bây giờ việc ấy có lẽ chẳng cần đến nữa.
- Tại sao vậy?
- Vì những gì đang xẩy ra ở đây, trên đảo của nội cháu.
Tim lắc đầu. Cậu chẳng hiểu Grant đang nói đến điều gì.
- Mẹ cháu bảo đảo là một nơi nghỉ mát, với hồ bơi và sân tenis.
- Không đúng. Bác sẽ giải thích cho cháu biết khi chúng ta cùng đi.
Bây giờ mình còn kiêm nhiệm thêm cái việc "cô nuôi dạy trẻ" chán ngấy này nữa, Regis bực mình nghĩ ngợi khi anh ta nghỉ ở nhà khách. Ông già ấy bảo mình: Cậu phải trông chừng mấy đứa nhỏ cẩn thận như gà dắt con đi ăn đấy. Trách nhiệm của cậu trong kỳ nghỉ cuối tuần này đấy.
Regis chẳng thích chuyện này tí nào. Anh ta cảm thấy mình giảm giá trị. Mình đâu phải là một ả giữ trẻ. Và còn chuyện này, anh ta đâu phải là người hướng dẫn tham quan, ngay cả hướng dẫn các VIP đi nữa. Anh ta là trưởng ban giao tiếp của công viên này, và còn bao nhiêu điều cần chuẩn bị từ bây giờ cho đến khi khai trương đảo, trong vòng một năm tới. Mọi việc liên hệ với các công ty giao tiếp ở San Francisco và London, với các tổ chức du lịch ở New York và Tokyo cũng đã chiếm hết thì giờ làm việc, đặc biệt vì chưa thể cho các công ty dịch vụ du lịch này biết có những điểm hấp dẫn gì ở đảo. Tất cả các tổ chức này chỉ vạch dự án đoán chừng, không có gì chính xác, và họ không mấy bằng lòng. Những con người sáng tạo cần được nuôi dưỡng chứ. Họ cần được khuyến khích để làm tốt công việc của mình chứ. Anh ta không thể phí thời gian làm cái việc vớ vẩn hướng dẫn các nhà khoa học thăm đảo được
Nhưng cái nghề giao tiếp công cộng này vốn rắc rối - không ai coi "nghề" này là một nghề nghiệp thật sự. Regis đã tới lui làm việc trên đảo này bảy tháng qua, và họ vẫn gán cho anh những công việc kỳ cục. Như dạo tháng giêng vừa qua. Đáng lẽ cái lão bác sĩ Harding phải làm việc ấy. Harding, mà không thì Owens, tay tổng thầu ấy. Thế mà việc lại giao cho Ed Regis. Anh ta thì biết gì về việc chăm sóc cho công nhân gặp tai nạn chứ. Và bây giờ lại là một hướng dẫn viên tham quan kiêm chị vú chết rấp. Anh ta quay lui và đếm mấy cái đầu. Vẫn còn thiếu một.
Rồi, từ phía sau, anh ta thấy nữ tiến sĩ Ellie Sattler ló ra khỏi phòng tắm. Anh ta cất tiếng:
- Nào, thưa quí vị, hãy bắt đầu chuyến tham quan tầng lầu một.
Tim đi với mấy người khác, tất cả theo ông Regis lên chiếc cầu thang màu đen lên tầng một của tòa nhà. Họ đi ngang một tấm biển đề: Vùng cấm - Chỉ dành cho nhân viên có thẩm quyền.
Tim hơi sợ khi thấy tấm biển. Họ đi theo hành lang tầng lầu về phía cuối. Một bên tường gắn kính, nhìn ra bao lơn với những cây sồi trong màn sương mỏng. Một bên tường còn lại là một dãy các cánh cửa phòng cách đều nhau, giống các văn phòng.
Khoảng giữa hành lang, họ đến một nơi xây toàn bằng kính, có tấm biển ghi: Phòng thí nghiệm sinh học - coi chừng - nguy hiểm
Phía dưới có tấm bảng ghi: Coi chừng - Chất sinh quái vật - Phụ nữ có thai cấm vào đây.
Tim càng lúc càng thấy kích động. Chất sinh quái vật tạo nên những quái thai. Cậu cảm thấy hơi rợn người, và lại cảm thấy thất vọng khi nghe Rehris nói: "Đừng có tin vào mấy cái biển đó. Chúng được treo lên đấy chỉ vì lý do pháp lý thôi. Chúng tôi bảo đảm với quý vị là mọi thứ ở đây đều an toàn". Anh ta dẫn cả đoàn đi qua cửa. Phía bên kia có một nhân viên bảo vệ. Regis quay lại nói với nhóm tham quan:
- Quý vị có thể chú ý là chỉ có một số nhân viên tối thiểu. Chúng tôi có thể điều hành trung tâm với tổng số hai mươi người. Dĩ nhiên, cần thêm người khi có khách đến đảo, nhưng vào lúc này thì chỉ hai mươi. Đây là phòng điều hành. Toàn thể công viên được điều khiển từ phòng này.
Họ dừng lại trước một dãy cửa sổ và nhìn vào bên trong một căn phòng tối lờ mờ. Một bản đồ toàn bộ công viên vẽ trên một tấm kính trong suốt dựng đứng, trước bản đồ là một dãy các bàn phím điều khiển và các computer. Một vài màn hình đang cho các bảng số liệu, nhưng phần lớn các màn hình đều cho thấy các hình ảnh quanh công viên. Trong phòng có hai người đang ngồi nói chuyện. Regis chỉ vào một người mặc sơ mi ngắn tay, mang cà vạt, đang hút thuốc:
- Người ngồi bên trái này là kỹ sư trưởng của chúng tôi, kỹ sư John Arnold, vá người ngồi bên cạnh quản lý công viên, ông Robert Muldoon, một tay đi săn nổi tiếng ở Nairobi.
Muldoon là một người to con, mặc kaki, kính mát móc ở túi áo trên. Ông ta liếc nhìn nhóm người, khẽ gật đầu rồi quay lại với các màn hình computer. Ed Regis tiếp:
- Tôi chắc là quý vị muốn xem căn phòng này, nhưng trước hết chúng ta hãy xem xem chúng tôi lấy được DNA của khủng long bằng cách nào.
Tấm biển trên cửa đề EXTRACTIONS, và giống như mọi cánh cửa khác của tòa nhà dành cho các phòng thí nghiệm, cửa được mở bằng một thẻ bảo mật. Eo Regis nhét chiếc thẻ vào khe, ánh sáng nhấp nháy và cửa mở.
Bên trong Tim thấy căn phòng nhỏ, ánh sáng màu lục. Bốn kỹ thuật viên đồng phục phòng thí nghiệm đang chăm chú nhìn vào mấy ống kính hiển vi điện tử hoặc nhìn các hình ảnh chuyển trên một màn hình có độ phân giải cao. Căn phòng chứa đầy một loại đá màu vàng. Đá đặt trên các bệ bằng kính; trong các thùng bìa cứng, trong các hộc tủ. Mỗi viên đá đều có buộc nhãn đánh số bằng mực đen. Regis giới thiệu Henry Wu, một người mảnh khảnh tuổi khoảng ba mươi.
- Tiến sĩ Henry Wu là trưởng nhóm di truyền của chúng tôi. Ông Henry Wu sẽ giải thích công việc của phòng này với quý vị.
Wu mỉm cười:
- Tôi xin cố gắng. Di truyền có hơi phức tạp một tí. Có lẽ quý vị đang thắc mắc chúng tôi lấy được DNA khủng long từ đâu.
Grant:
- Đúng thế. Việc này cứ đánh dấu hỏi trong óc tôi.
- Thật sự thì, có hai nguồn gốc có thể cung cấp. Bằng cách dùng kỹ thuật rút kháng thể của Loy, đôi khi chúng tôi có thể lấy được DNA khủng long trực tiếp từ xương khủng long.
- Lấy trực tiếp từ xương?
- Vâng, phần lớn protein hòa tan đã thoát khỏi xương trong suốt thời gian hóa thạch, nhưng hai mươi phần trăm các protein vẫn thu lại được bằng cách nghiền nát xương rồi dùng phương pháp Loy. Tiến sĩ Loy đã dùng chính phương pháp này để lấy được các protein của con morsupial đã tiệt giống ở Úc, cũng như đã lấy được một số tế bào máu từ các thứ thuộc cơ thể loài người cổ đại khai quật được. Kỹ thuật này cần chất thử nghiệm rất tinh túy, chỉ thực hiện được với năm mươi nanogram chất liệu. Nanogram là một phần tỉ của gam.
Grant:
- Quý vị đã phỏng theo phương pháp ấy?
- Chỉ như kỹ thuật phụ thôi. Như quý vị có thể tưởng tượng, hai mươi phần trăm các protein không thể nào đủ. Chúng tôi cần một chuỗi đầy đủ DNA khủng long để tái sinh. Và chúng tôi lấy được ở đây, - Wu nhấc một viên đá màu vàng lên - ở hổ phách, một thứ nhựa cây hóa thạch từ thời tiền sử.
Grant nhìn Ellie, rồi Malcolm. Nhà toán học gật đầu:
- Rất thông minh.
Grant thú nhận:
- Tôi vẫn không hiểu.
Wu giải thích:
- Nhựa cây thường là cái bẫy đối với côn trùng. Nhựa sẽ bọc kín côn trùng và bảo toàn được chúng khi nhựa bị hóa thạch. Người ta tìm được đủ loại côn trùng trong hổ phách - kể cả các loại côn trùng sống bằng cách hút máu các loại thú lớn.
- Hút máu. - Grant nhắc lại - Anh muốn nói là hút máu khủng long?
- Chúng tôi hy vọng thế? Vâng.
- Và rồi các côn trùng được bảo toàn trong hổ phách… - Grant lắc đầu - Tôi thật ngu ngốc. Điều này đúng là có thể xẩy ra.
- Tôi bảo đảm với ông là việc ấy đã thật sự xẩy ra.
Wu đến bên một kính hiển vi, một kỹ thuật viên đặt một mảnh hổ phách có chứa một con ruồi vào kính soi Trên màn hình, họ quan sát nhân viên kỹ thuật dùng một kim dài đâm xuyên qua miếng hổ phách đến họng của con ruồi tiền sử ông ta giải thích:
- Nếu con ruồi này có các tế bào máu lạ, chúng tôi sẽ có khả năng rút ra, và có được paleo - DNA, tức là DNA của một sinh vật tiệt giống từ thời tiền sử. Dĩ nhiên, chúng tôi không thể biết chắc là có hay không, cho đến khi rút được bất cứ thứ gì trong con ruồi, nhân phiên bản lên, rồi thử nghiệm. Đấy là những gì chúng tôi đã làm suốt năm năm nay. Đấy là cả một quá trình lâu dài và chậm chạp - nhưng chúng tôi đã được trả công xứng đáng.
- Thật sự thì, - Wu nói tiếp - bằng cách này, DNA khủng long lấy được có phần dễ dàng hơn là lấy DNA của các loài thú có vú. Lý do là hồng cầu của loài thú có vú không có nhân, và vì thế không có DNA trong hồng cầu của loài này. Để tái sinh một con thú có vú chúng tôi phải tìm bạch cầu, hiếm hơn nhiều so với hồng cầu. Nhưng khủng long có hồng cầu có nhân, như các loài chim ngày nay. Đấy là một trong số nhiều chỉ dẫn khiến chúng tôi tin khủng long không phải là loài bò sát. Chúng thuộc loài chim lớn có lông vũ.
Tim thấy tiến sĩ Grant vẫn do vẻ nghi ngờ và Dennis Nedry, một kỹ thuật viên mập mạp, trông có vẻ chẳng chú tâm tới điều gì, hình như anh ta đã biết hết mọi chuyện. Anh ta cứ nhìn vào phòng kế với vẻ sốt ruột. Wu nói:
- Ông Dennis Nedry đã chuẩn bị cho chúng ta xem các khâu tiếp theo của công việc. Làm thế nào để xác định được DNA. Muốn thế, chúng tôi phải dùng các computer cực mạnh.
Họ qua một cánh cửa đẩy, vào phòng lạnh có tiếng máy chạy rì rì. Hai cái tháp tròn cao hai mét đứng ngay giữa phòng, kê dọc theo các bức tường là những dãy thùng làm bằng sắt không rỉ cao ngang thắt lưng. Wu nói:
- Ở đây toàn là máy móc kỹ thuật cao cấp. Những thùng để dọc theo các bức tường là những máy Hamachi-Hood phân giải gen tự động. Chúng đang hoạt động, với tốc độ cực kỳ nhanh, do các máy siêu điện toán Cray XMP điều khiển. Giữa phòng là hai máy supercomputer Cray XMP- Quý vị đang đứng tại trung tâm một nhà máy sản xuất gen di truyền cực kỳ siêu việt, đến mức khó tin.
Có nhiều màn hình điều hành, và tất cả đang vận hành thật nhanh rất khó thấy chúng đang thể hiện những gì. Wu ấn một nút cho một hình dừng lại và giải thích:
- Quý vị đang nhìn cấu trúc của một đoạn nhỏ trong chuỗi DNA khủng long. - (trên màn hình là 23 hàng chữ, mỗi hàng có 60 chữ cái tượng trưng cho mỗi vòng xoắn của chuỗi DNA) - Xin chú ý là chuỗi cấu thành do bốn hợp chất cơ bản - adenine, thymine, guamne, và cytosine. Lượng DNA này có lẽ chứa theo thứ tự những phần tử cấu tạo nên một protein đơn lẻ, tức là một hormone hay một enzyme. Một phần tử DNA đầy đủ chứa đến ba tỉ protein cơ bản này. Nếu chúng ta nhìn vào một hình như thế này một giây mỗi hình, mỗi ngày tám tiếng, vẫn phải hơn hai năm mới nhìn hết một chuỗi DNA.
Tiến sĩ Wu chỉ vào hình:
- Đây là một ví dụ điển hình, bởi vì quý vị thấy mẫu DNA này có một sai sót, ở dòng 1201. Phần lớn các DNA chúng tôi rút được là các phần rời rạc hoặc không hoàn toàn. Vì thế điều chúng tôi phải làm trước tiên là sửa chữa chắp nối lại, hay đúng hơn, máy điện toán làm. Máy sẽ cắt DNA, dùng thứ mà chúng tội gọi là các enzyme giới hạn. Computer sẽ chọn một số các enzyme khác nhau để thực hiện công việc.
Wu lại bấm nút, một hình khác hiện lên:
- Hình này cũng là mẫu DNA vừa rồi. Nhưng quý vị hãy nhìn vào dòng 1201, ở chỗ sai sót đã có hai enzyme cắt hai bên vòng xoắn bị hư để chỉ định chỗ cần sửa chữa. Thường, chúng tôi để cho máy computer quyết định dùng enzyme nào để cắt. Nhưng chúng tôi cũng cần biết phải dùng cặp vòng xoắn cơ bản nào để thay vào chỗ vòng bị hư. Muốn thế, computer phải phân giải hàng vòng xoắn có sai sót. - Wu bấm nút, màn hình hiện rõ phần chuỗi xoắn có một xoắn bị cắt trống - Bây giờ chúng tôi đang tìm xoắn DNA bị hư. Và quý vị thấy là chúng tôi có thể tìm được. Chuỗi xoắn đậm nét là một đoạn nhỏ của DNA khủng long, bị cắt bởi hai enzyme và được phân tích. Bây giờ máy điện toán đang kết hợp lại, bằng cách tìm những xoắn đúng mã. Cũng tương tự như chơi ô chữ vậy. Máy điện toán có thể thực hiện động tác này rất nhanh.
Màn hình bây giờ là một hình khác, giống như hình đầu tiên nhưng chỗ sai sót ở dòng 1201 đã được kết hợp liên tục. Wu giải thích tiếp:
- Và đây là chuỗi DNA đã được kiểm tra sửa chữa cẩn thận, nhờ computer. Việc phân giải sửa chữa mà quý vị vừa chứng kiến sẽ phải mất hàng tháng trong một phòng thí nghiệm thông thường, nhưng chúng tôi có thể thực hiện trong vài giây.
Grant hỏi:
- Và quý vị đang làm việc với toàn bộ chuỗi DNA?
- Ồ, không. Chúng tôi đã bắt đầu từ những năm sáu mươi, lúc mà toàn thể một phòng thí nghiệm phải mất bốn năm để giải mã một đoạn xoắn như ở màn hình này. Bây giờ computer có thể làm trong hai tiếng đồng hồ. Nhưng cho dù vậy, số phân tử của DNA vẫn quá lớn. Chúng tôi chỉ nhìn xem các đoạn chuỗi của thú vật này khác với thú vật khác, hoặc khác với DNA hiện thời. Từ chủng loại này qua chủng loại khác, chỉ có vài phần trăm nucleotid là khác nhau. Đấy là điều chúng tôi cần phân tích, và đấy là một công việc quá lớn.
Dennis Nedry ngáp dài. Từ lâu anh ta đã đoán chừng rằng InGen hẳn phải làm những thứ đại loại như thế này. Cách đây hai năm, khi InGen thuê Nedry thiết kế hệ thống điều khiển công viên, một trong những thông số thiết kế đầu tiên được ghi với con số 3x109 lĩnh vực cần dữ liệu. Nedry xem đấy chỉ là một nhầm lẫn, và phôn đến Palo Alto để điều chỉnh lại. Nhưng họ bảo con số ấy chính xác. Ba tỷ lĩnh vực.
Nedry đã từng thực hiện một số khá nhiều hệ thống lớn. Anh ta đã tạo được tên tuổi mình khi thiết lập các hệ thống liên lạc bằng điện thoại khắp thế giới cho những tập đoàn đa quốc gia. Thường những hệ thống ấy có hàng triệu dữ kiện cần ghi bộ nhớ. Anh ta đã quen với chuyện ấy. Nhưng InGen muốn một thứ gì đó lớn hơn nhiều…
Rất bối rối, Nedry đã tìm gặp Barney Follows, một chuyên gia lừng danh về các hệ thống computer ở Cambridge để hỏi.
- Có loại database nào có đến ba tỷ dữ liệu được ghi không, thưa ông Barney?
Barney cười, bảo:
- Một sự nhầm lẫn. Họ đã thêm vào một hoặc hai con số không.
- Không phải nhầm. Tôi đã kiểm tra lại. Đó là những gì họ muốn.
- Nhưng đấy là điều điên khùng. - Barney nói - Điều không thể thực hiện được. Cho dù anh có những quá trình thực hiện nhanh nhất và những thuật toán nhanh như chớp thì việc tìm một dữ liệu cũng sẽ mất nhiều ngày. Có thể là nhiều tuần.
- Vâng, tôi hiểu. May là họ không yêu cầu tôi làm thuật toán. Tôi chỉ được yêu cầu thực hiện phần lưu trữ và phần ghi nhớ cho toàn nghệ thống. Nhưng vấn đề là… cái database với ba tỷ dữ liệu này có thể dùng vào việc gì?
Barney cau mày:
- Anh có thể nói rõ hơn về nơi anh làm việc?
- Đấy là một cơ sở di truyền sinh vật.
- Kỹ thuật di truyền… Vậy thì có một điều khá rõ…
- Điều gì?
- Một phân tử DNA.
Nedry lắc đầu:
- Ôi chuyện ấy thì không có đâu. Không ai có thể phân tích nổi một phân tử DNA. - Anh ta biết các nhà sinh vật học đang có dự án phân tích toàn thể một chuỗi DNA của người. Nhưng công việc này cần đến sự hợp tác thực hiện ít nhất cũng mười năm của toàn thể các phòng thí nghiệm khắp thế giới. Đấy là cả một khối lượng công việc khổng lồ cũng như dự án Manhattan thực hiện bom nguyên tử. Nedry nói thêm - Đây là một cơ sở tư nhân.
- Với ba tỷ dữ liệu, tôi nghĩ không thể là điều gì khác ngoài điều đó. Có thể họ quá lạc quan trong công việc thiết kế hệ thống ấy.
- Rất lạc quan.
- Hoặc có thể chỉ phân tích từng đoạn xoắn của DNA. Nhưng nếu thế thì họ đã có phương thức thuật toán RAM rất hiệu quả.
- Điều này khiến sự việc thêm ý nghĩa. Các kỹ thuật tìm dữ kiện ở database này cần rất nhiều thứ vào bộ nhớ.
- Anh biết ai thực hiện thuật toán cho họ? - Barney hỏi.
- Không. Công ty này bảo mật tuyệt đối.
- Vậy thì, dự đoán của tôi là họ đang làm chuyện gì đó với DNA. Hệ thống của họ là gì?
- Multi XMP.
- Multi XMP. Anh muốn nói là nhiều hơn một máy Cray XMP? Chà. - Barney lại nhíu mày, suy nghĩ thêm - Anh có thể nói thêm cho tôi biết điều gì khác nữa không?
- Rất tiếc, tôi không thể nói được.
Và Nedry đã trở về và thiết kế các hệ thống điều khiển. Toán kỹ thuật thực hiện chương trình cùng với anh ta đã mất hơn một năm, và đặc biệt công việc thêm khó khăn vì công ty không bao giờ bảo cho anh ta biết hệ thống này dùng vào việc gì. Các chỉ dẫn chỉ đơn giản là "Thiết kế một modun để lưu giữ dữ kiện" hoặc "Thiết kế một modun để trình bày hình ảnh". Họ cho anh ta các thông số thiết kế nhưng không cho một chi tiết nào về việc sử dụng. Anh ta đã phải làm việc trong bóng tối. Và bây giờ hệ thống đã thiết kế xong và đang vận hành, anh ta chẳng ngạc nhiên khi biết hệ thống có nhiều điều chưa hoàn chỉnh. Và họ đã ra lệnh cho anh ta đến đây, bực mình, khó chịu với những khiếm khuyết "của anh ta". Thật chán ngấy, Nedry nghĩ.
Nedry quay qua nhóm người khi nghe Grant hỏi:
- Và một khi computer đã phân tích một DNA, làm thế nào anh biết loài thú nào máy cho mã?
Wu:
- Chúng tôi có hai cách, cách thứ nhất là làm một đồ bản về gốc và sự phát triển của một chủng loại. DNA tiến hóa theo thời gian giống như mọi thứ khác trong một cơ chế - tay, chân, hay bất cứ thứ nào thuộc cơ thể. Vì thế chúng tôi có thể lấy một xoắn chưa biết rõ của DNA, nhở computer định xem nó khớp vào chỗ nào trong quá trình tiến hóa liên tục. Cách này rất mất thì giờ nhưng có thể thực hiện được.
- Cách thứ hai.
Wu nhún vai:
- Chỉ việc nuôi cho nó lớn lên xem thử nó là loài thú nào. Đấy là cách chúng tôi thường làm. Tôi sẽ chỉ cho quý vị cách ấy thực hiện thế nào.
Tim cảm thấy sốt ruột khi chuyến đi xem tiếp tục. Cậu bé thích các thứ máy móc kỹ thuật, nhưng dù vậy, cậu đang mất dần thích thú. Họ đến một cánh cửa, có tấm biển ghi FERTILIZATIONS. Tiến sĩ Wu mở cửa với thẻ bảo mật đặc biệt và mọi người bước vào.
Tim thấy lại vẫn một căn phòng khác với những kỹ thuật viên đang chăm chú làm việc với các kính hiển vi. Phía sau là một gian hoàn toàn được chiếu sáng bằng màu xanh của ánh sáng cực tím. Tiến sĩ Wu giải thích là công việc với DNA đòi hỏi sự phân chia tế bào tại các thời điểm chính xác, và vì thế họ giữ một số vi khuẩn độc hại nhất. Ông ta chỉ vào một loạt các ống tiêm đặt dưới ánh sáng cực tím:
- Helotoxin, colchicinold, beta-alkaloid. Giết bất cứ con thú nào trong vòng một hoặc hai giây.
Tim nghe thêm nữa về các chất độc nhưng tiến sĩ Wu lại nói về việc dùng trứng chưa có trống của cá sấu, về việc thay thế DNA, và rồi giáo sư Grant hỏi mấy câu hỏi phức tạp. Một bên căn phòng là những bình chứa lớn dán nhãn LIQUID N2. Và có những ngăn đông lạnh lớn xếp thành kệ chứa những phôi, mỗi phôi được bọc trong một loại giấy bạc nhỏ.
Lex thấy buồn chán. Nedry thì ngáp, và thậm chí tiến sĩ Ellie cũng không còn mấy chú ý. Tim cảm thấy mệt vì phải xem mãi những phòng thí nghiệm rắc rối này. Cậu muốn thấy những con khủng long.
Căn phòng kế có biển đề Phòng ấp. Tiến sĩ Wu nói:
- Ở đây hơi nóng và ẩm. Chúng tôi giử cho phòng ở nhiệt độ ba mươi bảy độ rưỡi và độ ẩm tương đối một trăm phần trăm. Chúng tôi cũng cho tập trung nhiều ôxy hơn. Đến ba mươi ba phần trăm.
Grant nói:
- Đấy là bầu khí quyển của kỷ Jurassic.
- Vâng, ít nhất chúng tôi cũng cho là như thế. Nếu vị nào cảm thấy khó chịu, xin cho tôi hay.
Tiến sĩ Wu chuồi thẻ bảo mật vào khe, cửa phòng ngoài kêu xì xì mở ra. Ông mời mọi người vào:
- Chỉ xin nhắc một điều: đừng đụng đến bất cứ thứ gì trong phòng. Một số những quả trứng rất dễ thấm chất nhờn ở da người. Và coi chừng phía trên đầu. Các bộ cảm ứng nhiệt luôn chuyển động.
Ông mở cửa phòng trong và cả nhóm bước vào phòng ươm nuôi. Tim đứng trước một căn phòng rộng rãi tràn ngập ánh sáng đỏ của đèn hồng ngoại. Trứng nằm trên các bàn dài, màu xám vỏ trứng mờ mở trong đám hơi sương bao phủ các bàn, những quả trứng đang lắc lư, động đậy nhẹ nhàng.
- Trứng loài bò sát chứa một lượng lòng đỏ lớn nhưng không có chút nước nào. Phôi phải rút nước từ môi trường xung quanh, vì thế mà phải có hơi sương.
Tiến sĩ Wu cho biết mỗi bàn có 150 trứng, một lứa mới rút DNA. Mỗi lứa ấp được phân loại nhận dạng bằng những con số.
Đám sương mờ lên cao đến thắt lưng, mấy công nhân trong phòng ươm di chuyển trứng này đến trứng khác, thò tay vào đám hơi sương, xoay từng trứng mỗi giờ, và kiểm tra nhiệt độ bằng các bộ cảm ứng nhiệt. Căn phòng được điều khiển hoạt động từ xa nhờ một camera video đặt cao quá đầu, và những bộ cảm ứng di động. Một bộ cảm ứng nhiệt bên trên di chuyển từ trứng này đến trứng kế, chạm vào mỗi trứng bằng một dây băng, kêu túp túp rồi chuyển qua trứng khác.
- Trong phòng ấp này, chúng tôi đã cho ấp nở hơn mười hai lứa do phòng EXTRACTIONS rút ra được, cho hai trăm ba mươi tám con thú sống. Tỷ lệ sống được vào khoảng 0,4%, và dĩ nhiên chúng tôi muốn cải thiện tỷ lệ này. Nhưng bằng vào sự phân tích của computer, chúng tôi đang làm một công việc với năm trăm biến cố; một trăm hai mươi về môi trường, hai trăm về phần bên trong của trứng, số còn lại là của chất di truyền. Vỏ trứng bằng plastic. Các phôi được cho vào trứng và đem đến ấp ở đây.
- Phải nuôi bao lâu mới lớn?
- Khủng long trưởng thành rất nhanh, đạt đến cỡ lớn hoàn toàn từ hai đến bốn năm. Vì thế hiện giờ chúng tôi đã có được một số chủng loại đã trưởng thành trong công viên.
- Các con số có ý nghĩa gì?
- Những mã số đó để nhận dạng những lứa DNA rút được: Bốn chữ đầu cho biết tên con thú đang được ươm nuôi. Như ở bàn kia, TRIC tức là triceraptors. Và STEG nghĩa là stegosaurus, vân vân.
- Còn bàn này? - Grant hỏi - Mã số ghi xxxx - 0001/1. Phía dưới có ghi mấy từ "Presumed Coelu".
- Đấy là một lứa DNA mới. Chúng tôi không biết rõ nó sẽ cho ra loại gì. Một lứa rút đầu tiên được đem ấp, chúng tôi không biết nó sẽ nở ra con thú gì. Ông có thể thấy nó được đánh dấu là "Presumed Coelu" nghĩa là nó có thể là loại coelurosaurus. Một loài khủng long ăn cá nếu tôi không nhớ nhầm. Đối với tôi, việc nhớ được tên mấy con vật thật là khó. Cho đến nay hình như có đến ba trăm thế hệ con cháu khủng long được biết đến.
- Ba trăm bốn mươi bảy. - Tim nói góp.
Grant mỉm cười, rồi nói:
- Có con nào đang nở không?
- Vào lúc này thì chưa. Thời gian ấp trứng thay đổi theo mỗi loại thú nhưng đại để thường phải mất khoảng hai tháng. Chúng tôi cố bố trí thời gian ấp trứng sao cho bộ phận nuôi dưỡng không bị dồn việc. Quý vị cứ thử tưởng tượng xem chúng tôi phải làm sao nếu cả một trăm năm mươi con cùng nở trong một vài ngày. Cho dù phần lớn không sống được. Quý vị hỏi gì nữa không? Không? Vậy chúng ta đến phòng nuôi, nơi có những con mới sinh.
Đấy là một phòng tròn, toàn màu trắng. Có một số đồ dùng trông giống như cái nôi vẫn thường thấy ở các phòng nuôi trẻ sơ sinh, nhưng còn trống. Các đồ dùng lặt vặt và đồ chơi nằm rải rác trên nền nhà. Một người đàn bà trẻ mặc áo choàng trắng đang ngồi giữa nhà, xây lưng về phía cửa. Tiến sĩ Wu hỏi:
- Hôm nay chị nhận gì vào đây, Kathy?
Người đàn bà trả lời:
- Chẳng có gì nhiều. Chỉ có một con raptor sơ sinh.
- Cho chúng tôi xem qua.
Chị ta đứng dậy bước tránh qua một bên. Tim nghe Nedry nói:
- Trông giống như một con thằn lằn.
Con thú trên nền nhà dài chừng năm tấc, nó có đầu thằn lằn, sống mõm dài, nhưng đứng trên hai chân sau rất mạnh mẽ, giữ thăng bằng bằng chiếc đuôi dày, thẳng. Hai chân trước ve vẩy trong không khí. Đầu nghiêng nghiêng ngúc ngắc nhìn đám người vào phòng. Alan Grant nói nhỏ:
- Một con velociraptor.
Wu gật đầu:
- Con velociraptor mongoliensis. Một con thú ăn thịt sống. Con này sáu tuần tuổi.
Grant cúi người nhìn gần hơn:
- Tôi vừa mới đào được một con raptor.
Lập tức con thằn lằn không lồ nhảy qua đầu Grant lên tay Tim. Cậu bé thốt lên:
- Ui cha!
Wu nói:
- Chúng có thể nhảy. Những con sơ sinh ấy. Và dĩ nhiên, các con trưởng thành cũng nhảy được.
Tim ôm con thú vào người. Con vật nhỏ chẳng nặng mấy, khoảng chửng một ký. Da ấm và hoàn toàn khô, chiếc đầu nhỏ cách đầu Tim có mấy phân, đôi mắt đen, tròn như hai viên bi mở lớn nhìn Tim. Lưỡi như một cái chĩa thò ra thụt vào. Tim hỏi:
- Nó có cắn cháu không?
- Không. - Wu đáp - Nó rất thân thiện.
Alan Grant hỏi, giọng nghi ngại"
- Ông có chắc vậy không?
- Ồ, hoàn toàn chắc. Ít nhất cũng đến lúc nó lớn hơn chút nữa. Nhưng chắc hay không, con vật non này chẳng có chiếc răng nào, cho dù là răng trứng.
- Răng trứng? - Nedry hỏi.
- Phần lớn khủng long khi nở ra là đã có rắng trứng - những sừng nhỏ ở đầu mõm, giống như sừng tê giác, giúp chúng khẽ bể vỏ trứng. Nhưng raptor không có. Chúng thọc bể vỏ trứng nhờ chiếc mõm nhọn và rồi nhân viên phòng ấp phải giúp chúng ra khỏi trứng.
- Quý vị phải giúp chúng nở. Vậy ngoài thiên nhiên chúng làm thế nào?
- Ngoài thiên nhiên?
Grant nhắc lại:
- Vâng. Khi chúng ấp ngoài thiên nhiên. Khi chúng tự làm tổ.
- Ồ, chúng không thể làm thế được. Không một con thú nào của chúng tôi có khả năng sinh sản cả. Và đấy là lý do tại sao chúng tôi phải có phòng ấp này, cách duy nhất để thay thế đàn thú ở công viên này.
- Tại sao các con thú lại không có khả năng sinh sản?
- Vâng, quý vị có thể tưởng tượng được không, chúng không thể sinh sản. Chúng tôi luôn luôn chuẩn bị ít nhất hai quá trình kiếm soát. Trong trường hợp này, có hai nguyên nhân độc lập với nhau làm cho thú không sinh sản được. Thứ nhất, chúng đã được làm tiệt mầm sinh sản. Chúng tôi phóng xạ chúng với tia X.
- Còn nguyên nhân thứ hai?
- Tất cả các con thú trong công viên này đều là con cái. - Wu trả lởi với nụ cười mỉm bằng lòng.
Malcolm:
- Tôi muốn nên có sự làm rõ ràng hơn về việc này. Vì đối với tôi thì dường như việc phóng xạ không có gì bảo đảm chắc chắn. Liều lượng phóng xạ có thể sai lạc, hoặc tia phóng xạ không đi đến đúng phần cơ thể cần thiết của con thú…
- Hoàn toàn đúng. Nhưng chúng tôi hoàn toàn tin tưởng là chúng tôi đã phá hủy được các mô sinh dục.
- Còn về chuyện tất cả các con thú đều là cái, việc này có được kiểm tra không? Có ai đi ra công viên… và "vén váy" mấy con khủng long và nhìn thử xem không? Tôi có ý nói là làm thế nào mà người ta biết được giới tính của một con khủng long?
- Cơ quan sinh dục của thú thay đổi tùy chủng loại. Một vài loại thì rất dễ biết, ở một vài loại khác hơi khó hơn. Nhưng để trả lời câu hỏi này, lý do chúng tôi biết tất cả các con thú đều cái thật sự là thế này: chúng tôi kiểm soát chromosome của chúng, và chúng tôi kiểm soát môi trường phát triển bên trong trứng. Từ quan điểm kỹ thuật sinh học, con cái thì dễ được sinh sản hơn. Có thể quý vị cũng biết là tất cả các phôi loài có xương sống vốn luôn là cái. Tất cả chúng ta bắt đầu cuộc đời bằng giống cái. Sau đó một số các hiệu quả nào đó được thêm vào - ví dụ một hormone nào đó đúng lúc đang phát triển - biến đổi cái phôi đang lớn thành ra đực. Vậy nếu loại bỏ được các hiệu quả đó, phôi sẽ tự nhiên trở thành cái. Vì thế, các con thú của chúng tôi đều là cái. Chúng tôi có khuynh hướng khi nhắc tới một con thú nào đớ, chúng tôi gọi nó là một "cậu", tỷ như con tyrannosaurus rex nhưng thật sự, nó là một con cái. Và, xin cứ tin chúng tôi, chúng không thể sinh sản được.
Con veilciraptor nhỏ đưa mõm khịt khịt vào Tim rồi cọ đầu vào cổ cậu bé. Tim thấy nhột. Wu nói:
- Nó muốn cháu cho ăn đấy.
- Nó ăn gì?
- Chuột. Nhưng nó vừa mới ăn xong, vì thế chưa cần phải cho ăn vào lúc này đâu.
Con raptor nhỏ ngửng đầu, nhìn Tim, và vẫy hai chi trước trong không khí. Tim thấy những vuốt nhỏ ở ba ngón của mỗi bàn chân. Rồi con raptor lại vùi đầu vào cổ cậu bé.
Grant đến gần một bên, nhìn thật chăm chú vào con vật để tìm hiểu. Ông vuốt nhẹ một chi trước của nó và nói với Tim:
- Đưa bác ẵm nó một chút xem.
Tim trao con vật cho Grant. Grant cầm lấy con thú trở qua trở lại xem xét từ sống lưng đến bụng trong khi con vật kêu chít chít. Ông đưa lên cao để nhìn nghiêng và con vật kêu lên sợ hãi. Regis nói:
- Nó không thích thế. Nó không thích bị đưa cao xa khỏi người ôm nó.
Con raptor đang kêu to lên nhưng Grant không để ý đến. Ông đang bóp đuôi nó dò tìm xương đuôi. Regis nói:
- Tiến sĩ Grant. Xin ông…
- Tôi không làm đau nó đâu.
- Tiến sĩ Grant. Những sinh vật này không phải ở thế giới chúng ta. Chúng có mặt từ lúc không có con người quanh chúng để nắn bóp tìm tòi gì nơi cơ thể chúng.
- Tôi không nắn bóp gì và…
Ed Regris:
- Xin ông cho nó xuống.
- Nhưng…
Regis bắt đầu thấy khó chịu. Anh ta dứt khoát:
- Xin để nó xuống ngay cho.
Grant trao con vật lại cho Tim. Nó ngừng kêu. Tim có thể cảm thấy trái tim nhỏ của nó đập nhanh qua ngực cậu.
- Xin lỗi, tiến sĩ Grant - Regis nói - những con thú sơ sinh này rất yếu ớt. Chúng tôi đã mất đi nhiều con chỉ vì những cử chỉ như thế. Chúng bị suy tim. Nhiều con chết trong vòng năm phút.
Tim vuốt ve con vật nhỏ
- Yên rồi, không có gì đâu, mày. - Tim con vật vẫn còn đập nhanh.
Regis:
- Ở đây chúng tôi cảm thấy một điều thật quan trọng là mấy con thú phải được đối xử với cử chỉ dịu dàng của người. Tôi hứa là ông sẽ còn nhiều cơ hội để xem xét.
Nhưng Grant không thể rời xa con vật được. Ông lại đến gần con thú trên tay Tim, nhìn soi mói. Con thú nhỏ mở mồm phun phì phì vào Grant, trong một tư thế giận dữ bất ngờ. Tim hỏi:
- Cháu có thể ở lại đây chơi với nó không?
Regis nhìn đồng hồ tay:
- Lúc này thì không được. Bây giờ là ba giờ, thời gian tốt nhất để đi thăm công viên, và quý vị sẽ thấy tất cả các con khủng long trong môi trường chúng tôi tạo ra.
Tim thả con raptor xuống nhà. Con thú nhảy quanh phòng, chụp lấy một mảnh vải, cho vào miệng, giựt giựt đầu mảnh vải với những chiếc móng nhỏ.

.:Trang Chủ:.
Copyright © 2020 - Đọc Truyện - All rights reserved.