Polaroid
Đọc truyện
Khi trở lại phòng điều khiển, Malcolm nói:
- Tôi có một câu hỏi nữa, tiến sĩ Wu à. Cho đến lúc này, tiến sĩ đã có được bao nhiêu loại khủng long rồi?
- Tôi không biết chắc chắn. Nhưng vào lúc này, tôi tin là đã có được mười lăm. Mười lăm chủng loại. Anh biết không, anh Regis?
Regis gật đầu:
- Đúng. Mười lăm.
Malcolm hỏi, vẻ ngạc nhiên:
- Ông không biết chắc chắn à?
Wu mỉm cười:
- Chúng tôi không đếm nữa, sau khi có được một tá đầu tiên. Và quý vị phải thấy rằng đôi khi chúng tôi tưởng là có được một con thú đúng như chúng tôi muốn có - Đúng như DNA mà chúng tôi rút được - Và con vật lớn lên, rồi một rủi ro gì đấy xảy ra. Và chúng tôi nhận thấy có điềụ gì đó sai sót. Một gen định chủng không hoạt động. Một hormone không phát sinh. Hoặc một vấn đề gì đó trong sự phát triển liên tục. Và thế là chúng tôi phải trở lại từ đầu với con thú đó. Đại loại như vậy. - ông ta mỉm cười - Có lúc chúng tôi tưởng đã có hơn hai mươi loại, nhưng bây giờ chỉ có mười lăm.
Malcolm:
- Và có phải là một con trong số mười lăm chủng loại đó là con - ông ta quay sang Grant - con gì nhỉ?
Grant:
- Con procompsognathus.
- Ông đã tạo ra một số procompsognathus? - Malcolm hỏi.
- Ồ, vâng - Wu trả lời ngay - Procompsognathus, hay con compys, là những con thú rất khác biệt. Và chúng tôi tạo một số rất lớn loài này.
- Tại sao thế?
- Vâng, chúng tôi muốn có một môi trường càng đúng với kỷ Jurassic chừng nào càng tốt chứng ấy. Và loài compys đúng là loại thú ăn xác súc vật chết ở kỷ Jurassic. Vì thế chúng tôi muốn có loài này để dọn sạch môi trường.
- Ông có ý nói để dọn dẹp các con thú chết?
- Vâng, nếu có thú chết. Nhưng với chỉ hai trăm ba mươi tám con thú lạ trong toàn thể số thú ở đây, chúng tôi không có nhiều xác thú chết. Đấy không phải là mục đích chính. Thật sự, chúng tôi cần lũ compys này để giải quyết toàn bộ các thứ chất thải khác.
- Thứ gì?
- Vâng, chúng tôi có một số thú ăn cỏ rất lớn. Đặc biệt chúng tôi đã không nuôi tạo những con sauropod lớn nhất, nhưng dù vậy vẫn có những con to quá ba mươi tấn sống đó đây trên đảo, và nhiều con khác từ năm tới mười tấn. Việc này đặt ra cho chúng tôi hai vấn đề lớn. Một là thức ăn cho chúng và dĩ nhiên là chúng tôi phải nhập thức ăn lên đảo hai tuần một lần. Không còn cách nào khác vì hòn đảo nhỏ thế này không thể bảo đảm thức ăn cho những con thú lớn như thế quanh năm. Và vấn đề thứ hai là phân. Tôi không biết quý vị đã từng thấy con voi "đi cầu" chưa, nhưng đúng là cả một khối phân. Một cục phân gần bằng một quả bóng đá. Hãy tưởng tượng cục phân của một con brontosaur, mười lần to hơn. Và bây giờ xin hãy tưởng tượng đống phân của một đàn súc vật như thế, mà chúng tôi có ở đây. Và các con thú lớn không phải là tiêu hóa hết thức ăn, vì thế chúng thải ra rất nhiều. Đã sáu mươi triệu năm trôi qua kể tử khi loài khủng long tiệt giống, rõ ràng là loại vi khuẩn chuyên việc tiêu hủy phân của chúng cũng tiệt giống luôn. Như thế, phân của lũ sauropod không phân hủy ngay được.
Malcolm:
- Đúng là một vấn đề.
Wu nói tiếp, không cười:
- Một vấn đề quá đi chứ. Chúng tôi đã mất bao nhiêu thời gian để giải quyết vấn đề này. Có thể quý vị đã biết là ở châu Phi có một loài bọ hung đặc biệt, chuyên ăn phân voi. Nhiều loại thú lớn khác cũng có những sinh vật nhỏ hơn "cộng tác'' làm vệ sinh các thứ chúng thải ra. Ở đây loài compys hóa ra chuyên ăn phân của các con thú ăn cỏ rồi tiêu hóa thêm lần nữa. Và phân của compys sẽ tiêu hủy nhờ vi khuẩn. Vì thế, có nhiều compys, vấn đề đã được giải quyết.
- Ông đã tạo ra được bao nhiêu compys rồi?
- Tôi không nhớ được chính xác, nhưng chúng tôi nhắm đến con số năm mươi. Và chúng tôi đã đạt được, hay gần đạt được. Trong ba lứa ấp. Sáu tháng chúng tôi cho ấp một lứa. Cho đến khi có đủ.
Malcolm:
- Năm mươi con. Quá nhiều để có thể theo dõi được.
- Phòng điều khiển được thiết lập để làm việc ấy. Họ sẽ chỉ cho ông xem phòng làm việc.
- Tôi hiểu. Nhưng nếu một trong những con compys này thoát khỏi đảo…
- Chúng không thể thoát.
- Tôi biết thế, nhưng giả sử có một con thoát được…
Wu nhướn mày:
- Ông muốn nói con thú được tìm thấy trên bờ biển? Con vật đã cắn cô bé Mỹ?
- Vâng, ví dụ thế.
- Tôi chưa biết giải thích vụ đó như thế nào, nó là con gì. Nhưng tôi biết nó không thể là một trong những con thú của chúng tôi, vì hai lý do. Thứ nhất là ở quá trình kiểm soát: thú của chúng tôi được computer đếm vài phút một lần. Nếu thiếu đi một con, chúng tôi biết ngay.
- Còn lý do thứ hai?
- Đất liền cách đảo bằng hàng trăm dặm. Phải mất gần một ngày để đi tàu đến đấy. Và ra khỏi đảo, những con thú của chúng tôi sẽ chết trong vòng mười hai tiếng.
- Làm sao ông biết được?
- Chúng tôi biết chính xác những gì xẩy ra. - Wu trả lời và bắt đầu tỏ vẻ hơi khó chịu - Thử nghĩ xem, chúng tôi đâu có điên. Chúng tôi hiểu đây là loài thú tiền sử, là một phần của môi trường sinh thái đã biến mất. Chúng tôi không muốn chúng sống sót ngoài hoang dã. Vì thế chúng tôi đã làm cho chúng phải phụ thuộc vào chất lysine. Tôi cho vào một gen tạo nên một enzyme sai trong trao đổi protein. Do kết quả đó, con vật không thể tự tạo ra lysine có acid amino dược. Chúng phải dùng đến thức ăn có chất đó từ bên ngoài, do chúng tôi cung cấp, dưới dạng viên. Chúng sẽ lên cơn co giật trong vòng mười hai tiếng và chết luôn nếu thiếu các viên đó trừ khi chúng kiếm được một nguồn thức ăn giàu chất lysine exogen. Mấy con thú này được tạo nên bằng kỹ thuật di truyền khiến cho chúng không có khả năng sống sót ở thế giới tự nhiên thật sự. Chúng chỉ có thể sống ở đây, trong công viên này. Chúng thật sự không có chút tự do. Về bản chất chúng là những tù nhân của chúng tôi.
Ed Regis nói với mọi người:
- Đây là phòng điều khiển. Đến lúc này, quý vị đã biết là thú được tạo ra như thế nào, hẳn quý vị muốn xem phòng điều khiển công viên như thế nào, trước khi chúng ta đi ra ngoài kia…
Anh ta đứng lại. Qua cánh cửa kính dày, căn phòng tối mờ. Các màn hình điều khiển đều tắt, trừ cái đang hiện ra những con số và hình một chiếc tàu lớn. Regis nói, giọng lấy làm lạ:
- Chuyện gì thế này nhi? Ồ, quỷ thật, họ đang cập bến.
- Cập bến?
- Cứ hai tuần một lần, tàu cung cấp từ đất liền đến đảo. Một trong những điều mà đảo này không có là một cảng tốt, hay thậm chí một bến tốt. Thành thử hơi khó khăn một tí khi cho tàu vào bờ, khi biển động. Có thể vài phút nữa. - Anh ta gõ cửa nhưng mấy người ngồi trong phòng không chú ý đến - Tôi e là chúng ta phải chờ vậy.
Ellie quay sang Wu:
- Ông có nói là đôi khi ông tạo được một con thú trông có vẻ tốt nhưng khi lớn lên, nó lại tỏ ra không hoàn thiện.
- Vâng. Chúng tôi cho là không có cách nào ngăn ngừa được. Chúng tôi có thể nhân bản DNA nhưng để phát triển việc này phải mất nhiều thời gian, và chúng tôi cũng không biết được liệu mọi thứ có hoạt động tốt không trừ phi chúng tôi thấy con vật thật sự phát triển đúng hướng.
Grant:
- Làm sao ông biết được nó phát triển đúng hướng?
Wu mỉm cười:
- Chúng tôi đã suy nghĩ nhiều về chuyện ấy. Rồi cuối cùng tôi chỉ biết hy vọng là các nhà cổ sinh vật như ông sẽ so sánh các con thú của chúng tôi với các hóa thạch tìm được để xác định xem chúng có phát triển đúng như tổ tiên của chúng thời tiền sử không.
Ellie:
- Nhưng con thú chúng tôi mới thấy đó, con velociraptor - ông nói đấy là một con monggoliensis?
- Vâng, chúng tôi lấy được DNA của nó trong hổ phách mua từ Trung Quốc.
Grant:
- Thú vị thật. Tôi vừa đào được một con antirrhopus. Có con raptor trưởng thành nào ở đây không?
- Có. - Regis trả lời ngay không do dự - Tám con cái. Những con cái thật sự là những con săn mồi. Chúng săn mồi theo đàn.
- Chúng tôi sẽ thấy chúng trong chuyến đi xem?
- Không. - Wu trả lời đột nhiên có vẻ không thoải mái. Và có lúc yên lặng bối rối. Wu nhìn Regis.
Regis vui vẻ nói:
- Không thấy được ngoài công viên . Các con velociraptor chưa được chuẩn bị đủ điều kiện để cho vào công viên. Chúng tôi nuôi chúng trong chuồng riêng.
Grant hỏi:
- Tôi xem chúng trong chuồng được không?
- Ồ vâng, dĩ nhiên. Trong khi chờ đi - anh ta nhìn đồng hồ - có lẽ quý vị muốn tới chuồng xem qua chúng.
Grant:
- Tôi chắc chắn là muốn rồi.
Ellie:
- Tôi cũng rất muốn.
Tim cũng háo hức:
- Cháu cũng muốn đến xem.
Regis:
- Chỉ việc đi quanh ra đằng sau ngôi nhà này, qua khỏi cái chái chứa dụng cụ quý vị sẽ thấy chuồng. Nhưng xin đừng đến quá gần hàng rào. - anh ta hỏi cô bé - Cháu muốn đi xem không?
- Không, - Lex nhìn Regis - Chú muốn chơi bóng không? Ném vài quả với cháu?
- Ờ, rất muốn. Chú cháu ta xuống dưới kia chơi một lát trong khi chờ phòng điều khiển mở cửa.
Grant cùng với Ellie và Malcolm đi quanh ra sau tòa nhà chính. Cậu bé Tim lẽo đẽo theo sau. Grant vốn thích trẻ - không thể nào không thích bất cứ đứa trẻ nào nhiệt tình với khủng long - Grant vẫn thường ngắm lũ trẻ trong các nhà bảo tàng khi chúng há hốc mồm chăm chú nhìn vào những bộ xương khổng lồ cao quá đầu chúng.
Ông tự hỏi say mê của chúng biểu hiện điều gì. Cuối cùng ông khẳng định rằng trẻ con thích khủng long vì những sinh vật khổng lồ này là hiện thân của một sức mạnh không thể kiểm soát nổi của một thứ quyền lực khó xác định được. Thứ quyền lực này làm say mê và cũng làm sợ hãi, như cha mẹ chúng. Và trẻ con yêu thích khủng long, cũng như yêu thích cha mẹ chúng.
Grant cũng nghĩ rằng đấy là lý do tại sao ngay cả trẻ còn nhỏ cũng học thuộc tên các khủng long. Ông luôn luôn thấy ngạc nhiên khi một đứa bé ba tuổi la lớn lên "Stegosourus!" Nói lên cái tên phức tạp này là một cách biểu lộ sức mạnh của mình đối với khủng long, một cách thức điều khiển.
Grant hỏi Tim:
- Cháu biết gì về velociraptor?
- Đấy là một loài ăn thịt sống, săn bắt mồi theo đàn, giống như con deinonychus.
- Đúng lắm. Điều này suy đoán được là do vẻ bên ngoài của con thú, vốn có dáng nhanh nhẹn và mạnh mẽ, nhưng nhỏ con so với khủng long. Con raptor chỉ nặng từ bảy mươi kí đến một trăm năm mươi kí. Chúng ta đoán rằng chúng đi săn mồi thành đàn là vì chúng phải mang những con mồi lớn. Và đã có những hóa thạch trong đó tìm thấy chúng biết săn tập thể. Và, raptor là loài có bộ não lớn, dĩ nhiên chúng thông minh hơn phần lớn các khủng long khác.
Malcolm:
- Thông minh như thế nào?
- Tùy thuộc vào người anh hỏi. Do các nhà cổ sinh vật học vừa cùng đi đến một ý tưởng khủng long là loài máu nóng, rất nhiều người chúng tôi cho rằng một số khủng long có lẽ thông minh. Nhưng không ai biết chắc.
Họ bỏ lại khu nhà khách sau lưng, nghe tiếng rì rì của những máy phát điện, phảng phất mùi dầu máy. Họ đi ngang qua một khu trồng cọ dừa và thấy một cái lán rộng, thấp, xây bê tông, lợp tôn. Tiếng rì rì dường như xuất phát từ đấy. Họ nhìn vào lán. Ellie:
- Chắc là một máy phát điện.
Grant nhìn vào trong:
- Một máy lớn.
Nhà máy năng lượng có hai tầng, xây dưới mặt đất. Những tua-bin lớn với ống và dây chạy xuống, những bóng đèn tròn cháy sáng. Malcolm nhận xét:
- Không cần xài một nhà máy như thế này cho một khu nghỉ mát. Họ đang sản xuất điện cho cả một thành phố.
- Có lẽ cho các computer.
- Có lẽ thế!
Grant nghe tiếng kêu be be. Ông đến một chuồng nhốt dê. Đếm qua, ông ước chửng có năm mươi hoặc sáu mươi con. Ellie hỏi:
- Họ nuôi dê làm gì nhỉ?
- Thử đoán xem.
Malcolm:
- Có lẽ họ dùng làm thức ăn cho khủng long.
Nhóm người tiếp tục đi tới, theo một con đường mòn hơi bẩn ngang qua một khu trồng tre nhỏ dày đặc. Cuối khu trồng tre, họ đến bên một hàng rào gồm hai lớp lưới sắt cao ba mét rưỡi, với dây thép gai bên trên. Có tiếng ù ù của điện chạy theo hàng rào ngoài.
Bên trong hàng rào, Grant thấy nhiều nhóm cây đuôi chồn trồng dày đặc, cao trên một mét rưỡi. Ông nghe tiếng khịt khịt, một âm thanh phát ra từ mũi rồi tiếng bước chân bồm bộp lên mặt đất đến gần. Im lặng một lúc lâu. Cuối cùng, Tim lên tiếng, thì thầm:
- Cháu chẳng thấy gì cả.
- Suỵt.
Grant chờ. Nhiều giây trôi qua. Ruồi bay vù vù trong không khí. Ông vẫn không thấy gì.
Ellie khẽ đập vào vai ông và chỉ.
Giữa đám cây đuôi chồn, Grant thấy chiếc đầu của một con thú. Chiếc đầu bất động, một phần ẩn sau đám lá đuôi chồn, hai con mắt đen to lạnh lùng quan sát đám người.
Chiếc đầu dài chừng sáu tấc. Từ đầu mõm, một hàm răng chạy dài ngược về phía sau đến một mấu thịt lồi dùng như cái tai. Chiếc đầu nhắc ông hình ảnh một con thằn lằn không lổ, hay một con cá sấu. Đôi mắt không nhấp nháy và con thú không cử động. Da trông như da thuộc với hoa văn hình sỏi nhỏ, và cơ bản có cùng màu với con non họ đã thấy ở phòng ươm: vàng nâu với những vết hình sỏi đỏ đậm, như vằn của một con hổ.
Khi Grant quan sát, một chi trước của con vật đưa ra chầm chậm, rẽ đám lá đuôi chồn trước mặt nó. Chi trước, "tay" của con vật, có những bắp thịt mạnh mẽ. Bàn tay có ba ngón, đầu mỗi ngón là vuốt nhọn hoắt cong lại. Bàn tay nhẹ nhàng, chầm chậm đẩy đám lá đuôi chồn qua một bên.
Grant cảm thấy ớn lạnh và nghĩ: Nó đang rình bắt chúng ta.
Chẳng lấy gì làm lạ khi con người ghét loài bò sát. Vẻ bất động, lạnh lùng, bộ dạng, tất cả đều xấu. Đối chiếu với đám cá sấu hay những con bò sát khổng lồ khác, con vật này nhắc ta một sự sống khác, một thế giới khác, đã biến mất trên quả đất.
Cú tấn công thật bất ngờ, từ trái sang phải. Mấy con raptor vụt qua đoạn đường dài mười mét đến bên hàng rào với tốc độ kinh người. Grant có một ấn tượng mờ mờ về các thân hình đầy sức lực cao gần hai mét, những chiếc đuôi mạnh mẽ giữ thăng bằng, các chi với móng vuốt nhọn cong, những chiếc hàm mở rộng răng lởm chởm.
Mấy con thú gầm gừ khi xông tới, rồi nhảy cả thân hình lên không trung, đưa cao hai chi trước với mấy chiếc vuốt nhọn bén như dao găm. Rồi chúng chạm phải hàng rào trước mặt, làm bắn ra những tia lửa điện tung tóe.
Mấy con velociraptor nhào ngược trở lại, rít lên. Mấy người khách xem đều tiến tới trước, bị thu hút bởi cảnh tượng ấy. Vào đúng lúc này con thứ ba mới tấn công, nhảy tông vào hàng rào với độ cao ngang ngực. Tim khiếp đảm hét lên khi các đám lửa điện bắn tung tóe quanh cậu bé. Mấy con thú gừ gừ, thứ âm thanh của loài bò sát, và nhảy lui vào giữa đám cây đuôi chồn. Chúng đi khuất, để lại một mùi hăng hắc và mấy làn khói cay xè. Tim hoàn hồn:
- Ôi, đúng là lũ quỷ!
Ellie:
- Chúng nhanh ghê gớm thật.
Grant:
- Những con thú săn mồi tập thể. Phục kích phối hợp theo bản năng… Thật kỳ lạ.
Malcolm:
- Tôi chẳng thích gọi chúng là những con vật thông minh cực kỳ.
Phía bên kia hàng rào, họ lại nghe tiếng sịt sịt giữa đám cọ dừa. Mấy chiếc đầu chầm chậm thò ra khỏi đám lá. Grant đi đến.
Mấy con thú quan sát họ, trừng trừng, lạnh lùng.
Một người da đen mặc đồ bảo hộ chạy đến gần họ:
- Quý vị không việc gì chứ?
Grant:
- Chúng tôi ổn cả.
- Có báo động cho chúng tôi biết. - anh ta nhìn hàng rào, bị lõm vào và cháy đen - Chúng tấn công quý vị?
- Vâng, ba con.
Người da đen gật đầu:
- Chúng cứ luôn luôn làm thế, tông hàng rào, bị điện giật choáng. Hình như chúng không đếm xỉa gì đến chuyện đó.
Malcolm:
- Cũng chẳng thông minh lắm, phải không?
Người da đen dừng lại. Anh ta liếc nhìn nhà toán học trong ánh sáng buổi chiều:
- Hãy lấy làm mừng vì có chiếc hàng rào ấy, thưa ông.
Và anh ta bỏ đi.
Từ lúc bắt đầu cho tới lúc chấm dứt, toàn bộ cuộc tấn công không thể lâu hơn sáu giây. Grant vẫn đang cố sắp đặt lại ấn tượng ấy. Tốc độ thật kinh người, mấy con thú quá nhanh, ông khó mà thấy được chúng di động.
Khi đi lui, Malcolm nói:
- Lũ này nhanh nhẹn ghê gớm thật.
Grant:
- Đúng thế. Nhanh hơn bất cứ loài bò sát nào. Một con sấu trâu có thể di động nhanh, nhưng chỉ với khoảng cách ngắn, từ một mét rưỡi đến hai mét. Những con kỳ nhông lớn, như kỳ nhông rồng có tên là komodo dài một mét rưỡi ở Indonesia có thể chạy với tốc độ ba mươi dặm một giờ, nhanh đủ đuổi kịp một người. Và chúng giết người thưởng xuyên. Nhưng chúng tôi đoán lũ thú bên trong hàng rào có thể nhanh hơn gấp hai lần.
Malcolm:
- Tốc độ của một con mèo rừng chutat. Sáu mươi, bảy mươi dặm giờ.
- Chính xác.
- Dường như chúng phóng mình tới. Gần như chim.
- Đúng thế.
Trong thế giới đương thời, chỉ có loài thú có vú rất nhỏ như con cầy mongoose mới có tốc độ nhanh tương ứng. Phải là loại thú có vú nhỏ, và dĩ nhiên kể cả chim. Loài chim bắt rắn ở châu Phi, hay đà điểu đầu mào ở Úc. Thật sự, mấy con velociraptor mang đầy đủ chính xác cái ấn tượng đe dọa nhanh khiếp người mà Grant đã chứng kiến ở con đà điểu đầu mào, một loài cầm có móng vuốt sống ở New Guinea.
Malcolm:
- Vậy thì những con velociraptor này trông giống loài bò sát về da và bề ngoài, nhưng chúng di chuyển như chim, với tốc đô và sự thông minh của một con chim săn mồi thịt. Đúng các tính chất như thế không?
- Đúng Tôi có thể bảo là chúng pha trộn những nét ấy.
- Việc ấy có làm anh ngạc nhiên không?
Grant:
- Không hẳn vậy. Thật sự thì điều đó gần đúng với những gì các nhà sinh vật học tin vậy từ lâu.
Từ khi những bộ xương lớn được tìm thấy vào những thập niên 1820 và 1830, các nhà khoa học cảm thấy bắt buộc phải giải thích là các bộ xương xem như thuộc các chủng loại thú khổng lồ của thế giới đương đại. Là bởi vì người ta tin rằng không một loài thú nào có thể tiệt giống được, vì Chúa không cho phép một sinh vật nào mà Ngài sáng tạo ra chết mất giống được.
Cuối cùng thì mọi người thấy quan niệm như thế là nhầm lẫn, và mấy bộ xương thuộc về những con thú đã tiệt giống. Nhưng là những con thú nào?
Năm 1842, Richard Owen, nhà cơ thể học hàng đầu của Anh quốc vào những ngày ấy, gọi chúng là những con dinosauria, nghĩa là những con "thằn lằn kinh khủng". Owen nhận ra rằng con dinosaur - khủng long - dường như có tính cách tổng hợp của thằn lằn, cá sấu, và chim. Đặc biệt hông khủng long giống chim, không giống thằn lằn. Và không như thằn lằn, nhiều khủng long dường như đứng thẳng. Owen tưởng tượng khủng long cử động nhanh nhẹn, là loài sinh vật lanh lợi, và quan điểm của ông được thừa nhận suốt bốn mươi năm sau đó.
Nhưng khi những bộ xương khổng lồ thật sự được phát hiện - con vật mà khi sống cân nặng một trăm tấn - các nhà khoa học bắt đầu hình dung khủng long là một con vật khổng lồ ngốc ngếch, chuyển động chậm chạp, mà số phận đã định trước như thế để rồi chết mất giống. Hình ảnh một con thú bò sát uể oải dần dần thay chỗ hình ảnh con chim chuyển động nhanh nhẹn. Trong những năm gần đây, các nhà khoa học như Alan Grant lại bắt đầu quay trở lại ý tưởng về những con khủng long hoạt động nhanh nhẹn. Các đồng sự của Grant xem ông như là người khởi xướng quan niệm về tập tính của khủng long. Nhưng bây giờ ông phải thừa nhận rằng quan điểm của ông quá thiếu thực tế của những con thú săn mồi to lớn nhanh nhẹn một cách khó tin này.
Malcolm hỏi Grant:
- Thật sự điều tôi đang để tâm suy nghĩ là thế này: Đây có thật là một con khủng long?
- Tôi cho là thế, vâng.
- Với tập tính săn mồi tập thể.
- Chúng tôi suy đoán thế. - Grant trả lời - Theo các ghi nhận về hóa thạch, những đàn velociraptor có khả năng mang đi các thú vật nặng một ngàn tấn, như con tenontosaurus có thể chạy nhanh như ngựa. Chúng phải hợp tác mới làm được việc ấy.
- Làm thế nào chúng hợp tác với nhau, mà không có ngôn ngữ?
- Ồ, ngôn ngữ không cần thiết trong hợp tác săn bắt. - Ellie góp chuyện - Vượn tinh tinh vẫn làm thế. Một bầy tinh tinh sẽ vây bắt được con khỉ và giết đi. Tất cả mọi thông tin đều bằng mắt.
- Mấy con khủng long hồi nãy đúng là tấn công chúng ta?
- Vâng.
- Chúng sẽ giết chúng ta và ăn thịt nếu chúng làm được?
- Tôi nghĩ vậy.
- Lý do khiến tôi hỏi là - Malcolm tiếp - tôi nghe nói các thú vật săn mồi thịt lớn như sư tử và cọp bẩm sinh không ăn thịt người. Có đúng thế không? Mấy con thú này hẳn phải biết được rằng con người rất dễ bắt giết. Chỉ sau đó chúng mới trở thành thú săn người.
Grant:
- Vâng, tôi tin đúng như thế.
- Vậy thì những con khủng long này không chỉ có cơ hội để có được kinh nghiệm như sư tử và cọp. Chúng xuất hiện trên quả đất lúc có loài người - hoặc loài thú có vú lớn. Có Chúa biết chúng nghĩ gì khi chúng thấy chúng ta. Vì thế tôi tự hỏi: chúng học biết được ở đâu đó theo con đường sinh trưởng, rằng con người dễ giết?
Cả nhóm im lặng bước đi.
Malcolm:
- Dù sao, tôi cũng rất muốn được xem phòng điều khiển ngay bây giờ.
-- http://viptruyen.pro --
H
ammond hỏi:
- Họ có đặt vấn đề gì không?
Henry Wu:
- Không. Rốt lại chẳng có vấn đề gì cả.
- Họ chấp nhận sự giải thích của anh à?
- Tại sao không? Tất cả là sự thật, ngay trước mắt mọi người. Chỉ các chi tiết là rắc rối. Hôm nay tôi muốn trình bày với ông về vấn đề những chi tiết. Ông có thể xem chuyện này như là vấn đề thẩm mỹ.
John Hammond nhăn mũi, dường như lão ngửi thấy mùi gì đó không ưa, lão lặp lại:
- Thẩm mỹ?
Hai người đang ngồi chờ trong gian phòng khách lịch sự của căn nhà nghỉ một tầng của Hammond, xây giữa đám cọ dừa ở khu phía bắc công viên. Căn phòng thật thoáng và đủ tiện nghi, có gắn sáu màn hình điều khiển cho thấy tất cả thú vật trong công viên. Hồ sơ Wu vẫn mang dấn, có đóng dấu SỰ PHÁT TRIỂN THÚ - PHIÊN BẢN 4 - 4, nằm trên bàn cà phê.
Hammond đang nghe Wu nói với thái độ như cha con, và với vẻ nôn nóng. Henry Wu, ba mươi ba tuổi, biết rất rõ rằng anh đã dốc hết cả sự nghiệp của mình để làm việc cho Hammond. Hammond đã thuê anh làm ngay sau khi tốt nghiệp.
- Dĩ nhiên, còn có những hậu quả thực tế nữa. Tôi thực sự cho rằng ông phải xét đến đề nghị của tôi cho giai đoạn thứ hai. Chúng ta phải đi đến phiên bản 4 - 4.
Hammond hỏi:
- Anh muốn thay hết cả đám thú hiện có?
- Vâng, tôi muốn thế.
- Tại sao? Có chuyện gì với lũ đó?
- Không có gì. Ngoài việc chúng là những con khủng long thật sự.
Hammond mỉm cười.
- Đấy là điều tôi yêu cầu anh Wu. Và đấy là điều anh đã làm cho tôi.
- Tôi biết. Nhưng ông thấy… - Anh ta dừng lại. Làm thế nào anh có thể giải thích điều này cho Hammond? Hammond hiếm khi đến thăm đảo. Và đây là một tình huống kì lạ m à Wu đang cố truyền đạt - Ngay lúc này, trong lúc chúng ta đang đứng đây, hầu như không một ai trên thế giới từng thấy một con khủng long thực sự. Không một ai biết chúng như thế nào.
- Ừ.
- Nhưng khủng long chúng ta có hiện nay là thật, - Wu chỉ vào các màn hình khắp phòng - nhưng chúng chưa hoàn thiện, theo một cách nhìn nào đấy. Không có sức thuyết phục. Tôi có thể làm cho chúng tốt hơn.
- Tốt hơn theo cách nào?
- Một mặt, chúng di chuyển qua nhanh. Người ta không quen với việc thấy những con thú to lớn cử động nhanh như thế. Tôi sợ rằng du khách đến xem sẽ cho rằng lũ thú dường như bị tăng tốc độ cử động, như phim ảnh chụp quá nhanh.
- Nhưng anh Wu, đây là những con khủng long thật. Chính anh đã nói như thế.
- Tôi biết. Nhưng chúng tôi có thể tạo ra những con thú chậm hơn, có tính cách thuần hóa hơn.
- Những con khủng long thuần hóa? - Hammond sịt mũi - Chẳng ai muốn xem khủng long thuần hóa đâu, Wu. Họ muốn những con vật thật.
- Nhưng đấy là quan điểm của tôi. Tôi không nghĩ là họ muốn thế. Họ muốn thấy những gì họ chờ thấy, vốn rất khác với điều chúng ta có.
Hammond cau mày. Wu tiếp:
- Chính ông đã nói, công viên này là nơi giải trí. Và việc giải trí chẳng dính líu gì đến tính thật. Sự giải trí về mặt lý thuyết chống lại tính thật.
Hammond thở dài:
- Anh Wu, đây có phải là lúc chúng ta tiến hành cuộc thảo luận trừu tượng ấy không? Anh biết là tôi muốn mọi thứ đơn giản. Mấy con khủng long ta đang có hiện giờ là thật, và…
- Ấy nhưng, không phải đúng vậy. - Wu bước quanh phòng, chỉ vào các màn hình - Tôi không nghĩ rằng chúng ta đang tự lừa phỉnh. Chúng ta không tái tạo lại quá khứ ở đây. Quá khứ đã trôi qua rồi. Quá khứ không bao giờ có thể tái tạo lại được. Những gì chúng ta đang làm là xây dựng nên một quá khứ hay ít ra là một phiên bản của quá khứ. Và tôi đang nói rằng tôi có thể tạo nên một bản sao quá khứ tốt hơn.
- Tốt hơn sự thật?
- Tại sao không? Rốt lại thì những con thú này đã được sửa đổi. Chúng ta đã thêm gen vào để lấy bằng sáng chế, chúng ta làm chúng phụ thuộc vào lysine. Và chúng ta đã làm mọi thứ có thể làm để gia tốc cho chúng mau trưởng thành.
Hammond nhún vai:
- Đó là chuyện không thể tránh được. Chúng ta không muốn chờ đợi. Chúng ta còn có những nhà đầu tư.
- Dĩ nhiên. Nhưng tôi chỉ nói là tại sao chúng ta dừng lại đây? Tại sao không đẩy mạnh lên nữa để tạo ra một loại khủng long đúng như ta muốn. Vì một điều là chúng dễ chấp nhận hơn đối với khách đến xem, điều khác là chúng ta dễ nuôi giữ hơn? Một phiên bản chậm chạp hơn, dễ bảo hơn cho công viên?
Hammond nhíu mày:
- Nhưng lúc ấy mấy con khủng long sẽ không đúng thật.
- Hiện giờ chúng cũng không đúng thật. Đấy là điều tôi đang cố nói với ông. Chẳng có tính chất thật nào ở đây. - Anh ta nhún vai có vẻ tuyệt vọng. Anh ta có thể nhận thấy rõ là vấn đề sẽ không thông qua được. Hammond chưa bao giở quan tâm đến vấn đề kỹ thuật, mà bản chất cuộc bàn cãi này là kỹ thuật. Làm sao anh có thể giải thích cho Hammond về những xoắn DNA bị thiếu, những đoạn chắp nối, những chỗ hở trong một chuỗi DNA mà Wu bắt buộc phải thêm vào cho đầy đủ, cố có những suy đoán tốt nhất để thực hiện, nhưng, vẫn là những suy đoán. DNA của khủng long cũng giống như những bức hình quá cũ đem ra tô vẽ thêm thắt vào những chỗ bị bong bị mờ, tuy cơ bản dựa trên bức hình gốc nhưng nhiều nơi cần sửa chữa làm cho rõ nét, và do đấy…
Hammond quàng tay quanh vai Wu:
- Wu này, anh đang phật ý, tôi nghĩ rằng anh đang trở nên e ngại rồi đấy. Anh đã làm việc hết sức khó nhọc trong một thời gian dài và anh đã làm được những việc thật ghê gớm, cuối cùng là lúc anh vén màn cho mọi người thấy những gì anh làm. Điều tự nhiên là có hơi căng thần kinh một chút. Còn tý nghi ngờ nào đó. Nhưng tôi hết sức tin tưởng, anh Wu, là mọi người sẽ thỏa mãn. Hoàn toàn thỏa mãn.
- Nhưng ông Hammond. Hãy nhớ lại vào năm 1987, khi chúng ta bắt đầu. Chúng ta không có được một con nào trưởng thành đủ kích thước cả, vì thế chúng ta phải đoán những gì chúng ta cần. Chúng ta đã đặt làm những dụng cụ gây choáng to lớn, những xe với chuồng nhốt có cọc nhọn, những súng bắn ra lưới điện. Chúng ta có rất nhiều thứ dụng cụ mà giờ đây, hóa ra quá chậm chạp khi sử dụng. Chúng ta phải điều chỉnh lại một số. Ông có biết là Muldoon cần các trang bị quân sự: súng phóng hỏa tiễn TOW và những vũ khí điều khiển bằng laser?
- Hãy cứ mặc cho Muldoon với những ý muốn đó. Tôi chẳng bận tâm. Đây chỉ là sở thú thôi, Wu.
Điện thoại réo, và Hammond bước đến trả lời. Wu cố nghĩ ra cách khác để thúc hối thực hiện những yêu cầu của mình. Nhưng sự thật là, sau năm năm dài chuẩn bị, công viên sắp hoàn thành, và Hammond sẽ không nghe anh nữa.
Cũng đã có lúc Hammond chăm chú lắng nghe Henry Wu nói. Đặc biệt là vào những ngày đầu tiên khi lão tuyển dụng anh, lúc ấy Wu là một sinh viên hai mươi tám tuổi vừa mới đạt được học vị tiến sĩ sau thời gian làm luận án tại phòng thí nghiệm của Norman Atherton.
Cái chết của Atherton đã để lại cho cơ sở thí nghiệm nỗi buồn tiếc và lâm vào tình trạng bối rối; không một ai biết những gì đã xảy ra trong khu vực cung cấp ngân khoản cho các chương trình đào tạo tiến sĩ. Có nhiều điều bất ổn, mọi người đều lo lắng cho nghề nghiệp của mình.
Hai tuần lễ sau đám tang, John Hammond đến gặp Wu. Mọi người trong phòng thí nghiệm biết rằng Hammond vốn vẫn có mối liên hệ với Atherton, dầu mối manh thế nào thì không ai biết rõ được.
Nhưng Hammond đã tiếp xúc với Wu bằng một sự thẳng thắn mà Wu không bao giờ quên.
- Norman Atherton luôn bảo rằng anh là nhà di truyền học giỏi nhất trong phòng thí nghiệm của ông ấy. - ông ta hỏi thẳng - Dự định của anh bây giờ thế nào?
- Tôi chưa biết. Có lẽ là nghiên cứu.
- Anh muốn được bổ dụng vào đại học?
- Vâng.
Hammond nói, khô khan:
- Đấy là một sự nhầm lẫn. Nếu anh kính trọng tài năng của mình.
Wu nhấp nháy mắt:
- Tại sao?
- Vì, chúng ta hãy cứ nhìn vào sự việc. Các trường đại học không còn là trung tâm trí thức của đất nước nữa. Nói thật chính xác thì các nơi đó thật lố bịch. Và là những nơi tù túng. Đúng có tỏ ra ngạc nhiên như thế. Tôi đâu cả nói những gì mà anh không biết. Kể tử sau thế chiến II, tất cả những khám phá thật sự quan trọng đã xuất phát từ các phòng thí nghiệm tư nhân. Tia laser, transistor, thuốc chủng bệnh bại liệt, mạch tổ hợp IC, phương pháp sang ảnh ba chiều, máy tính điện tử cá nhân, máy phân tích CAT… danh sách còn lại dài dài. Chỉ vì các trường đại học không còn là nơi cho các việc đó xẩy ra nữa. Và chúng không thể như thế đã bốn mươi năm nay. Nếu anh muốn thực hiện một việc gì quan trọng ở lĩnh vực computer hay di truyền, thì đừng có vào trường đại học. Nghe tôi đi, đừng.
Wu thấy mình không nói được lời nào. Hammond tiếp:
- Anh phải đi qua những cửa ải nào để thực hiện dự định của anh? Anh phải viết bao nhiêu lá đơn xin xỏ, điền bao nhiêu mẫu, chạy chọt bao nhiêu nơi? Ủy ban điều hành? Chủ nhiệm khoa? Phòng tổ chức? Làm sao anh có thêm những khâu thực hiện công việc nếu anh cần? Có thêm phụ tá nếu anh muốn? Tất cả những thứ đó cần bao nhiêu thời quan? Một người thông minh không thể tiêu phí thời gian vào những biểu mẫu và những cửa ải ấy. Cuộc đời thì quá ngắn, mà DNA thì quá dài. Anh muốn ghi lại dấu ấn của mình. Nếu anh muốn thực hiện một điều gì đó, hãy tránh xa các trường đại học.
Trong những ngày đó, Wu quả có cảm thấy thất vọng khi muốn theo đuổi dự định của mình, Hammond đã chiếm được nhiều chú ý của anh.
- Tôi đang nói về công việc của anh. - Hammond tiếp - Về một kết quả thực sự. Một nhà khoa học cần gì? Anh ta cần thì gờ, và tiền bạc. Tôi đang bàn với anh về một thời gian làm việc năm năm với mỗi năm số tiền tài trợ mười triệu đô. Năm mươi triệu đô. Và không một ai chỉ cho anh phải tiêu như thế nào. Tự anh quyết định. Mọi người khác chỉ việc theo ý anh.
Đề nghị quá ngon lành tưởng không thể là sự thật. Wu yên lặng một lúc thật lâu. Cuối cùng, anh hỏi:
- Để đổi lại
- Để thử làm một việc mà có thể là không làm được.
- Việc liên quan đến lĩnh vực nào?
- Tôi không thể nói với anh về các chi tiết, những đại để công việc dính líu đến việc tái sinh các loài bò sát.
- Tôi nghĩ là công việc đó có thế thực hiện được. Loài bò sát dễ hơn loài thú có vú. Việc tái sinh có thể chỉ trong mươi mười lăm năm.
Hammond nói gọn:
- Tôi có năm năm, và nhiều tiền, cho ai muốn lao vào việc ấy ngay bây giờ.
- Công việc tôi có thể công bố khônt,ơ?
- Cuối cùng.
- Không ngay lập tức?
- Không.
- Nhưng cuối cùng có thể công bố chứ? - Wu cứ bám vào điểm này.
Hammond mỉm cười:
- Đừng lo. Nếu anh thành công, cả thế giới sẽ biết về những gì anh làm, tôi hứa với anh vậy.
Và bây giờ, quả vậy, hình như toàn thể thể giới sẽ biết, Wu nghĩ. Sau năm năm cố gắng hết sức, giờ chỉ còn thêm một năm nữa là đến ngày mở cửa công viên cho công chúng. Dĩ nhiên những năm ấy trôi qua không thật đúng như những gì Hammond đã hứa. Đã có một số người đến bảo Wu phải làm điều này điều nọ và nhiều lần những áp lực đáng sợ đã đè nặng lên anh. Bản thân công việc cũng đã thay đổi, - thậm chí không phải là tái tạo lại một số bò sát, khi họ bắt đầu hiểu rằng khủng long rất giống loài chim. Đấy là việc tái sinh một số loài chim, một công việc được xem là rất khó khăn. Khó hơn nhiều. Và trong hai năm qua, anh kiêm nhiệm nhiều chức: quản lý phân phối tài chính, giám thị các tổ nhóm nghiên cứu, các tổ computer giải mã gen. Quản lý phân phối không phải là loại công việc anh thích. Cũng không phải là loại công việc anh đòi hỏi.
Tuy vậy, anh đã thành công. Anh đã làm được những việc mà không ai tin là có thể làm được. Nhưng Hammond không nghe và không cần anh nữa.
Lão mỉm cười, mở cửa cho anh bước ra.
ĐIỀU KHIỂN
Grant nhìn tất cả các màn hình computer điều khiển từ xa trong các phòng tối lờ mờ. Grant vốn không ưa các máy điện toán. Ông biết điều này khiến mình thành một nhà khảo cứu lỗi thời, kiểu cũ, nhưng ông bất cần. Một số sinh viên trẻ làm việc với ông lại có cảm tình thật sự với các máy tính, một trực giác. Grant không bao giờ cảm thấy thế. Ông cho computer là những cỗ máy phức tạp.
John Arnold bắt đầu:
- Quý vị muốn biết về cơ chế phòng điều khiển? - ông ta xoay chiếc ghế đang ngồi về phía khách tham quan. Người kỹ sư trưởng này bốn mươi lăm tuổi, gầy, dáng luôn căng thẳng, hút thuốc liên tục. Ông liếc nhìn mấy người khác trong phòng - Chúng tôi có những cơ chế điều khiển quý vị khó có thể tin được. - ông đốt một điếu thuốc khác.
Gennaro:
- Ví dụ?
- Ví dụ theo dõi đường đi của thú. - Arnold ấn một nút ở bảng điều khiển và một bản đồ bằng kính sáng lên với những đường vẽ màu xanh thành hình một con thú. - Đấy là một con T-rex vị thành niên của chúng tôi. Một con T-rex nhỏ. Tất cả những di chuyển của nó trong công viên trong hai mươi bốn tiếng vừa qua. - Arnold lại bấm nút - Hai mươi bốn tiếng trước. - và bấm nữa - Hai mươi bốn tiếng trước đó nữa.
Những đường vẽ trên bản đồ chụm lại dày đặc, theo một lối nguệch ngoạc như trẻ con vẽ. Nhưng những nét nguệch ngoạc tập trung vào một chỗ, gần phía tây nam của hồ nước. Arnold nói:
- Quý vị sẽ có được một nhận xét về phạm vi sinh hoạt của nó ở từng thời điểm. Con này còn nhỏ nên nó ở gần hồ nước và nó luôn luôn ở cách xa con trưởng thành. Nếu cho xuất hiện đường đi của hai con, quý vị sẽ thấy là đường đi của chúng không bao giờ giao nhau.
Gennaro hỏi:
- Vào lúc này con rex lớn ở đâu?
Arnold bấm một nút khác. Bản đồ sáng trắng lên và một điểm duy nhất sáng chói với một mã số xuất hiện ở những cánh đồng phía tây bắc của hồ nước. Arnold nói:
- Nó đấy.
- Con rex nhỏ đâu rồi?
- Tôi sẽ chỉ cho quý vị thấy mọi con thú trong công viên. - Arnold nói và bấm nút - Đây là toàn bộ hai trăm ba mươi tám con thú vào phút này.
Tấm bản đồ bắt đầu sáng lên như một cây Noel, có hàng tá chấm sáng, mỗi chấm kèm một mã số. Gennaro hỏi:
- Chính xác đến mức nào?
- Trong phạm vi một mét rưỡi. - Arnold giụi tắt điếu thuốc - Hãy nhìn vấn đề theo cách này: quý vị lái một chiếc xe ra đấy và sẽ thấy các con thú đúng vào các chỗ ấy, chính xác như chúng đang xuất hiện trên bản đồ
- Bao lâu thì sự ghi nhận này thay đổi?
- Ba mươi giây.
- Khá hấp dẫn đấy chứ. Làm thế nào có được các hình ảnh
- Chúng tôi có những bộ cảm ứng với sự chuyển động đặt khắp công viên. Phần lớn các bộ cảm ứng này chuyển hình ảnh bằng dây, một số bằng sóng điện tử. Dĩ nhiên, những bộ cảm ứng với sự chuyển động này thường không cho quý vị biết về chủng loại, nhưng chúng tôi nhận biết trực tiếp qua các màn hình video. Ngay cả khi chúng tôi không theo dõi màn hình điều khiển, hệ thống computer cũng theo dõi. Và kiểm tra chặt chẽ mọi con thú.
- Có khi nào computer nhầm lẫn không?
- Chi có với những con non thôi. Computer thỉnh thoảng nhầm với loại này, vì chúng quá bé. Nhưng đấy không thành vấn đề. Mấy con non luôn ở gần bầy các con trưởng thành. Và chúng tôi còn có bản kiểm kê về các chủng loại.
- Ấy là cái gì?
- Cứ cách mười lăm phút, computer kiểm kê toàn bộ các loại thú. - Arnold bấm một nút - Như bảng này.
Màn hình hiện lên một bảng kiểm kê. Arnold giải thích:
- Những gì quý vị thấy là một quá trình tổng hợp các bộ cảm ứng đặt khắp công viên. Việc đếm dựa trên các số liệu theo dõi lũ thú. Toàn bộ công việc cho thấy computer không thể nhầm lẫn được vì nó so sánh hai cách thu thập dữ hệu khác nhau. Nếu thiếu một con thú chúng tôi biết ngay trong vòng năm phút.
Malcolm:
- Tôi hiểu. Nhưng đã khi nào có sự cố xảy ra để thử nghiệm chưa?
Arnold:
- Có, bằng một cách khác tương tự. Chúng tôi có vài con thú chết. Một con othnielian bị vướng vào các cành cây và bị chết nghẹt. Một con stegos chết vì bệnh đường ruột. Một trong số hypsilophodontids rơi gãy cổ. Và trong mọi trường hợp, mỗi khi có con thú ngừng hoạt động thì các con số kiểm kê không hình thành và computer báo động.
- Trong vòng năm phút?
- Vâng.
- Còn các con số ở cột cuối?
- Đấy là mã số các phiên bản. Quý vị nhớ là các con thú này được con người tạo nên. Thỉnh thoảng có sự nhầm lẫn. Vì thế, khi nào chúng tôi phát hiện có sự sai lầm, phòng thí nghiệm của tiến sĩ Wu phải thực hiện phiên bản mới, và chúng tôi phải theo dõi các phiên bản chúng tôi có ngoài kia.
Malcolm:
- Vâng, tôi hiểu. Nhưng, trở lại chuyện đếm số thú. Tôi hiểu là việc đếm dựa vào các bộ cảm ứng.
- Vâng.
- Và các bộ cảm ứng có đặt khắp công viên?
- Các bộ cảm ứng bao quát chín mươi hai phần trăm diện tích đảo. Chỉ có vài nơi chúng tôi không thể dùng được. Ví dụ, chúng tôi không thể đặt dọc theo dòng sông, vì sự chuyển động của dòng nước và sự đối lưu từ mặt nước làm nhiễu loạn hoạt động của các bộ cảm ứng. Nhưng chúng tôi đặt hầu như khắp nơi. Và nếu như computer theo dấu một con thú vào vùng không có bộ cảm ứng, nó sẽ ghi vào bộ nhớ, và sẽ theo dõi cho đến khi con vật lại ra khỏi vùng ấy. Và nếu không thấy con vật ra, computer sẽ báo động.
- Bây giờ, anh đã cho chúng tôi thấy có bốn mươi chín con procompsognathus. Giả sử chúng tôi nghi rằng một vài con trong số này thật sự không phải cùng chủng loại. Làm sao anh chỉ cho thấy là chúng tôi sai.
- Có hai cách. Trước hết, tôi có thể theo dấu các chuyển động cá thể của các con compys giả sử là có. Compys là loài sống quần thể, chúng di chuyển theo nhóm. Chúng tôi có hai nhóm compys trong công viên. Vì thế các con thú này phải nằm trong nhóm A hoặc nhóm B.
- Vâng, nhưng…
- Cách thứ hai là quan sát trực tiếp. - Arnnld nói và bấm một nút. Một trong mấy màn hình điều khiển bắt đầu chớp hiện nhanh hình ảnh của các compys, đánh số từ 1 đến 49.
- Những bức hình này là…
- Những hình nhận dạng. Của các compys trong năm phút vừa qua.
- Vậy thì anh có thể nhìn thấy tất cả các con thú, nếu anh muốn?
- Vâng. Tôi có thể đếm duyệt các con thú bằng cách nhìn từng con một bất cứ lúc nào tôi muốn.
Gennaro:
- Còn về nuôi giữ thì sao? Các con thú có thể vượt ra khỏi chỗ nhốt không?
- Tuyệt đối không. Đây là những con thú quá đắt, ông Gennaro à. Chúng tôi chăm sóc chúng thật kỹ càng. Chúng tôi có những rào chắn nhiều lớp. Trước hết là lớp hào. - Amold bấm nút và bản đồ sáng lên với một mạng lưới các đường kẻ màu da cam - Các hào này, không có hào nào sâu dưới ba mét rưỡi, và luôn đầy nước. Với thú lớn hơn, hào có thể sâu đến chín mét. Kế đến, là hàng rào điện. - Các đường màu đỏ sáng lên trên bản đồ. - Chúng tôi có năm mươi dặm hàng rào cao ba mét rưỡi, kể cả hai mươi hai dặm bao quanh đảo. Tất cả các hàng rào của công viên tải điện mười ngàn volt. Các con thú đều nhanh nhóng hiểu rằng chúng không nên đến gần hàng rào.
Gennaro:
- Nhưng nếu có một con thoát khỏi rào?
Arnold khịt mũi và dập tắt điếu thuốc. Gennaro tiếp:
- Chỉ giả thiết thôi. Giả sử việc ấy xảy ra?
Muldoon đằng hắng, lên tiếng:
- Chúng tôi sẽ đi theo bắt lại. Có nhiều cách để làm việc đó. Súng gây choáng, lưới điện, thuốc gây mê. Các thứ này không gây tử vong vì, như ông Arnold nói, chúng là những thú vận đắt giá.
Gennaro gật:
- Và nếu một con thoát khỏi đảo?
- Nó sẽ chết trong vòng chưa tới hai bốn tiếng. - Arnold trả lời. - Đây là những con thú có được do kỹ thuật di truyền. Chúng không có khả năng sống được trong thế giới thật sự.
Gennnaro:
- Còn về các bộ phận điều khiển thì sao? Có thể có ai xen vào gây rối được không?
Arnold lắc đầu:
- Hệ thống điều khiển được thiết kế tạo nên rất nhiều khâu ngăn không cho ai có thể xen vào được. Computer độc lập trong mọi hoạt động. Năng lượng độc lập. Năng lượng dự trữ cũng độc lập. Hệ thông không có liên lạc với ngoài đảo, vì thế nó không thể bị gây ảnh hưởng bởi các bộ phá điều khiển từ xa. Hệ thống các computer đều có khâu bảo mật.
Một lúc yên lặng. Arnold giụi tắt điếu thuốc:
- Một hệ thống tuyệt diệu. Một hệ thống tuyệt hảo.
Malcolm:
- Vậy tôi đoán là, vì hệ thống của quý vị hoạt động quá tốt như vậy, hầu như quý vị không gặp vấn đề gì.
Arnold nhướng mày:
- Chúng tôi có cả triệu vấn đề. Nhưng không có vấn đề nào giống như các vấn đề mà quý vị đang bận tâm. Chúng tôi thấy quý vị đang lo lắng là lũ thú có thể thoát khỏi đảo đến đất liền và gây nên những chuyện quỷ quái. Chúng tôi chẳng thấy có gì phải lo lắng cả. Những con thú này rất mong manh và dễ đau yếu. Chúng được mang đến từ một thời điểm cách nay sáu mươi lăm triệu năm, đến một thế giới rất khác với thế giới chúng đã sống, đã quen thuộc. Chúng tôi đã phải tốn nhiều công sức để săn sóc chúng.
- Quý vị phải thấy được rằng - Arnold nói tiếp - con người đã nuôi được loài thú có vú và loài bò sát trong sở thú hằng trăm năm rồi. Vì thế chúng ta biết rất nhiều cách chăm sóc cho một con voi hay một con trăn. Nhưng chưa có ai từng chăm sóc cho một con khủng long. Chúng là những thú vật mới. Và chúng tôi cũng chưa nắm vững. Bệnh tật của lũ thú này cũng là vấn đề lớn đối với chúng tôi.
- Bệnh tật à? - Gennaro hỏi, đột nhiên cảnh giác - Liệu khách viếng có thể bị nhiễm bệnh không?
Arnold lại khịt mũi:
- Người ta chưa từng bao giờ bị lây bệnh cảm từ một con cá sấu nuôi ở sở thú. Các sở thú không bận tâm vấn đề ấy. Chúng tôi cũng thế. Điều chúng tôi lo lắng là lũ thú đang chết chính vì bệnh của chúng, hay là lây lan qua các con khác. Nhưng chúng tôi cũng đã có những chương trình kiểm soát. Quý vị muốn xem hồ sơ sức khỏe của con rex lớn? Các lần tiêm chủng? Các lần chữa răng? Đấy là các điểm nên quan tâm… Quý vị cũng nên xem các thú y sĩ khoan các lỗ sâu ở mấy chiếc răng nanh con thú để trám rồi lại cọ rửa sạch để nó khỏi nuốt phải thuốc.
- Bây giờ thì chưa xem được. Thế còn về các hệ thống chuyên chở thì sao?
- Ông muốn nối đến các hệ thống chuyển du khách?
Gennaro ngước lên nhanh: "Hệ thống chuyên chở?" Arnold vẫn đang nói:
- Chưa có hệ thống chở du khách nào hoạt động cả. Chúng tôi có thiết kế hệ thống "Du hành trên sông" với các thuyền trôi dọc theo sông, và "Bay trong lồng khủng long", nhưng chưa có hệ thống nào sử dụng trong năm tới. Công viên sẽ khai trương bằng những chuyến đi tham quan khủng long theo cách mà quý vị sẽ đi trong vài phút tới. Những chuyến đi kiểu khác sẽ được tiến hành sau đó mười hai tháng nữa.
Grant:
- Ông nói là sẽ có những chuyến chở khách? Như trong các công viên giải trí?
Arnold:
- Đây là công viên thú vật. Chúng tôi có những chuyến đi vào các khu vực khác nhau, và chúng tôi gọi đó là các chuyến xe chở du khách. Thế thôi.
Grant cau mày. Một lần nữa, ông lại cảm thấy khó chịu. Ông không thích cái ý tưởng là khủng long được dùng trong một công viên giải trí. Malcolm tiếp tục những câu hỏi của mình:
- Quý vị bảo là toàn bộ khu công viên được điều khiển từ phòng này?
Arnold:
- Vâng. Và chúng tôi có thể điều khiển chỉ với một người thôi, nếu cần. Chúng tôi đã tự động hóa nhiều. Computer có thể tự mình theo dấu các con thú, cho ăn, cho đầy nước vào các máng uống nước trong vòng bốn mươi tám tiếng mà không cần người giám thị.
Malcolm:
- Đây là hệ thống do Nedry thiết kế?
Dennis Nedry ngồi ở một góc cuối phòng, đang ăn một thỏi chocolate và đang đánh máy. Anh ta trả lời, không nhìn lên:
- Đúng thế.
Arnold hãnh diện nhắc lại:
- Thật là một hệ thống tuyệt hảo.
Nedry hờ hững:
- Vâng, đúng vậy. Chỉ có một hoặc hai trục trặc cần điều chỉnh.
Arnold nói:
- Bây giờ, tôi thấy là chuyến đi tham quan sắp bắt đầu. Vậy trừ khi quý vị còn câu hỏi nào…
Malcolm:
- Chỉ một câu nữa thôi. Đây là câu hỏi về việc khảo cứu. Ông đã cho chúng tôi thấy ông có thể theo dấu lũ compys và cho thấy rõ từng con riêng biệt. Có thể nào thực hiện việc khảo sát chúng trong cả nhóm không cần đo chúng, hay bất cứ gì khác. Nếu tôi muốn biết chiều cao, trọng lượng, hoặc…
Arnold bấm một nút: màn hình hiện một biểu đồ về tình hình sức nặng và chiều cao của nhóm compys.
- Chúng tôi có thể làm được việc đó - Arnold nói - và làm rất nhanh. Máy điện toán nhận những số liệu cân đo khi đọc từ màn hình video, vì thế có thể phiên dịch ra ngay. Quý vị thấy biểu đồ này biểu diễn một sự phân bố bình thường mật độ loài thú này. Nó cho thấy phần lớn các con thú có số cân đo trung bình tập trung ở các điểm giữa. Đầu và cuối đường cong, các con thú lớn hơn hoặc nhỏ hơn.
- Đây là biểu đồ mà quý vị cần!
- Vâng. Và bây giờ, - Arnold châm một điếu thuốc khác - còn câu hỏi nào không?
Malcolm:
- Không. Tôi đã biết hết những gì tôi cần biết.
Khi cả mấy người cùng đi ra ngoài, Gennaro nói:
- Đối với tôi thì đây dường như là một hệ thống khá tốt. Tôi thấy đám thú không thể nào thoát ra được.
- Ông thấy thế sao? Tôi thì hoàn toàn thấy việc thú trốn thoát là hiển nhiên.
Gennaro:
- Chờ một chút nữa. Anh cho là đã có con trốn thoát?
- Tôi biết là chúng đã trốn thoát.
- Nhưng bằng cách nào? Anh cũng thấy rồi đó. Họ có thể đếm tất cả. Có thể nhìn đến tận từng con. Họ biết chúng đang ở đâu vào bất cứ lúc nào. Làm thế nào mà chúng có thể thoát khỏi đảo được?
CHUYẾN THAM QUAN
- Theo lối này, thưa quý vị, đi theo lối này - Ed Regis nói. Bên cạnh anh ta là một nữ công nhân đang trao những chiếc nón an toàn bằng nhựa cứng có hình con khùng long nhỏ với dòng chữ "Công viên Jurassic".
Một hàng xe Land Cruiser hiệu Toyota từ hầm garage dưới khu nhà nghỉ tiến ra. Từng chiếc đỗ lại, không có ngườl lái, êm ru. Hai người da đen đồng phục mở cửa xe cho khách.
- Hai đến bốn hành khách cho mỗi xe, thưa quý vị, hai đến bốn hành khách cho mỗi xe. - Tiếng nói thu thanh sẵn vang lên - Trẻ em dưới mười tuổi phải có người lớn dẫn đi. Hai đến bốn người mỗi xe, thưa quý vị…
Tim đứng nhìn Grant, Ellie và Malcolm leo vào chiếc Land Cruiser thứ nhất với người luật sư, Gennaro. Tim nhìn qua Lex, đang đứng thọc tay vào găng. Cậu chỉ chiếc xe thứ nhất và hỏi Regis:
- Cháu đi với họ được không?
- Chắc là họ có nhiều điều để thảo luận. Các vấn đề kỹ thuật.
- Cháu rất thích các chuyện kỹ thuật. Cháu xin đi với họ.
- Ấy nhưng cháu vẫn có thể nghe được họ ở xe sau. Có máy vô tuyến liên lạc giữa hai xe.
Chiếc xe thứ hai đến. Tim và Lex leo vào, và Regris theo sau. Anh ta giải thích:
- Đây là các xe chạy bằng điện. Điều khiển bởi dây cáp dọc theo đường.
Tim rất hài lòng được ngồi ở băng trước, bởi vì ở bảng điều khiển trước mặt có hai màn hình computer và một hộp điều khiển trông giống như máy CD-ROM; đấy là một máy đĩa laser điều khiển bằng computer. Còn có thêm một máy bộ đàm và một máy liên lạc vô tuyến. Có hai ăng ten trên mui xe và một cặp kính đeo mặt kỳ dị đặt ở hộc bản đồ.
Người da đen đóng cửa chiếc xe Land Cruiser. Chiếc xe rời chỗ với tiếng u u của động cơ điện. Ở phía trước, ba nhà khoa học đang cùng với Gennaro nói chuyện và chỉ trỏ, rõ ràng là rất hào hứng. Regis bấm nút intercom, nói:
- Chúng ta hãy xem họ đang nói gì.
Giọng Gennaro qua intercom, có vẻ tức giận:
- Tôi không hiểu ông nghĩ ông đang làm chuyện quái quỷ gì ở đây.
Malcolm:
- Tôi hiểu rất rõ tại sao tôi đến đây.
- Ông đến đây để cho chúng tôi lời khuyên thiết thực, không phải để chơi trò đấu trí con khỉ ấy. Tôi có cổ phần năm phần trăm trong công ty này và có trách nhiệm nắm chắc rằng Hammond đã thực hiện công việc một cách có trách nhiệm. Bây giờ mấy ông đã đến đây…
Regis bấm nút intercom nói với xe trước:
- Để không làm ô nhiễm môi trường của công viên, những chiếc Land Cruiser chạy điện nhẹ nhàng này đã được hãng Toyota chế tạo riêng cho chúng tôi. Sau này, chúng tôi hy vọng sẽ lái các xe này đi giữa đám thú, như ở các công viên giải trí ở châu Phi; còn giờ đây, xin quý vị thưởng thức chuyến đi. - Anh ta nghỉ một lát - Và xin quý vị biết cho là, chúng tôi có thể nghe được quý vị ở sau này.
Gennaro:
- Ôi Chúa ơi! Tôi muốn được nói chuyện tự do. Tôi đâu có yêu cầu mấy đứa nhỏ chết rấp ấy theo đến đây…
Regis mỉm cười, bấm một nút:
- Chúng ta chỉ mới bắt đầu chuyến đi xem, phải không ạ? - Họ nghe tiếng kèn đồng như tiếng kèn trumpel, và hai màn hình trong xe chớp lên dòng chữ CHÀO MỪNG QUÝ KHÁCH ĐẾN CÔNG VIÊN KỶ JURA. Một giọng trầm ấm vang lên:
- Chào mừng quí khách đến công viên kỷ Jura. Quý vị đang tiến vào thế giới của kỷ Jurassic, một thế giới của những sinh vật dũng mãnh đã biến mất khỏi quả đất từ lâu, mà quý vị có đặc quyền thấy lần đầu tiên.
Chiếc Land Cruiser chạy qua một khu trồng toàn cây cọ dừa thấp và to, lá dày đặc. Giọng nói vẫn tiếp tục:
- Xin chú ý trước hết đến cuộc sống thực vật đang bao quanh quý vị. Những hàng cây bên trái và bên phải quý vị là cây cycad, một loại cây tiền thân của cây cọ dừa, có tử thời tiền sử. Cycad là thức ăn ưa thích của khủng long. Qúy vị cũng có thể thấy các cây bennettitaleans và ginkgoes. Thế giới khủng long ở đây còn gồm có các cây hiện đại, như thông, linh sam, và cây bách ở vùng đầm lầy. Quý vị sẽ thấy hết tất cả các loại cây này.
Chiếc Land Cruiser di chuyển chầm chậm giữa các đám lá. Tim chú ý đến các hàng rào và những bức tường chắn được chiếu lên màn hình với màu xanh lá cây để tăng ảo giác là xe đang di chuyển qua một khu rừng rậm thật sự. Giọng hướng dẫn nói tiếp:
- Chúng tôi tưởng tượng thế giới khủng long như là thế giới của những con thú khổng lồ ăn cây cỏ, đi rong kiếm ăn qua những khu rừng trên những đầm lầy khổng lồ thuộc kỷ Jurassic và Cretaceaes, cách đây một trăm triệu năm. Nhưng phần lớn khủng long không to lớn như mọi người tưởng. Con khủng long nhỏ nhất không lớn hơn một con mèo nuôi trong nhà, và một con khủng long trung bình chỉ to bằng cỡ một con ngựa đua. Trước hết chúng ta sắp xem một trong những con thú cỡ trung bình, gọi là con hypsilophodont. Nếu quý vị nhìn qua phía trái, ngay lúc này quý vị có thể thấy được chúng.
Tất cả đều nhìn qua bên trái.
Chiếc Land Cruiser dừng lại trên một triền dốc thấp, chờ các tàn lá cây hở một khoảng đủ cho du khách nhìn về phía đông. Họ thấy một khu rừng thoai thoải chạy dài đến một cánh đồng cỏ màu vàng cao chừng một mét. Không thấy có khủng long. Lex lên tiếng:
- Khủng long đâu?
Tim nhìn bảng điều khiển. Đèn máy chuyển nhấp nháy và bộ CD-ROM kêu ro ro. Rõ ràng là đĩa thu đang lấy dữ kiện từ một hệ thống tự động nào đó. Cậu đoán là các bộ cảm ứng theo dõi các hoạt động của thú cũng đồng thời điều khiển các màn hình trong chiếc Land Cruiser. Các màn hình bây giờ đang cho thấy hình ảnh các con hypsilophodont và các số liệu về chúng. Giọng nói cất lên:
- Hypsilophodont là những con linh dương của thế giới khủng long, những con thú tương đối nhỏ, nhanh nhẹn, có thời kỳ lang thang khắp nơi trên quả đất từ quần đảo Anh đến Trung Á lên Bắc Mỹ. Chúng tôi cho rằng các con thú này rất thành công vì chúng có hàm và răng để nhai các loại cây cỏ tốt hơn các đồng loại đồng thời với chúng. Thật vậy, cái tên hypsilophodontid có nghĩa là "những chiếc răng cao", vốn liên hệ đến bộ răng có tính cách tự mài nhọn của loài thú này. Quý vị có thể thấy chúng ở trong những cánh đồng trống ngay phía trước, và có thể trên các cành cây.
Lex nói:
- Trên các cành cây à? Khủng long trên cây?
Tim cũng đang nhướn cổ lên với chiếc ống nhòm. Cậu nói:
- Phía bên phải. Ở cây to ấy, khoảng giữa cây kể từ gốc lên…
Trong đám lá cành lỗ chỗ của thân cây một con thú màu lục đậm, vào khoảng cỡ một con khỉ đầu chó đứng bất động trên một cành cây. Con thú trông giống như con thằn lằn to đứng trên hai chân sau, lấy thăng bằng bởi chiếc đuôi buông thõng. Tim nói:
- Cháu biết đấy là con othnielia.
Grant nói:
- Những con thú nhỏ qúy vị đang thấy được gọi là othnielia, để tôn vinh nhà săn tìm khủng long Othniel Marsh thuộc trường đại học Yale ở thế kỷ mưởi chín.
Tim còn tìm thấy thêm hai con khác nữa trên các cành cao hơn cùng cây ấy. Chúng to cùng cỡ. Không một con nào động đậy. Lex bảo:
- Khủng long gì mà chán òm. Chẳng con nào làm cái gì cả.
Giọng nói:
- Bầy chính của lũ thú này có thể nhìn thấy ở cánh đồng cỏ dưới chân đồi quý vị. Chúng tôi có thể làm chúng xuất hiện bằng âm thanh gọi bầy.
Một chiếc loa mắc cạnh hàng rào phát ra những âm thanh giọng của mũi nghe như tiếng ngỗng kêu. Từ cánh đồng cỏ ngay bên trái họ sáu chiếc đầu thằn lằn nhô cao khỏi đám cỏ, chiếc này sau chiếc kia. Hiệu quả có vẻ khôi hài và Tim cười lớn. Sáu chiếc đầu biến mất. Chiếc loa lại phát ra tiếng kêu và một lần nữa, mấy cái đầu lại nhô lên - theo cách như lần vừa rồi, chiếc này sau chiếc kia. Sự lặp lại đúng y của một tập tính thật đáng ngạc nhiên.
Giọng nói:
- Hypsilophodont đặc biệt không phải là một loài thú thông minh. Trí khôn của chúng chỉ gần bằng một con bò nuôi ăn thịt thôi.
Mấy chiếc đầu màu lục xám, với các loạt vằn nâu sẫm và đen chạy dài xuống mấy chiếc cổ mảnh. Từ mấy chiếc đầu, Tim đoán thân hình chúng dài cỡ một mét hai, lớn bằng một con hươu. Một vài con đang nhai cỏ nhóp nhép. Một con đưa chi trước có năm ngón lên cào cào trên đầu. Cử chỉ này khiến con vật có dáng tư lự, suy nghĩ .
- Nếu quý vị thấy chúng đang gãi, ấy là vì chúng có vấn đề ở da. Những nhà thú y ở đây cho rằng đấy có thể là một loại nấm hoặc một thứ dị ứng. Nhưng họ vẫn chưa chắc chắn. Vả lại, đây là con khủng long đầu tiên trong lịch sử được khảo sát khi đang sống.
Động cơ điện của xe khởi động và có tiếng nghiến của các bánh xe răng cưa. Với âm thanh bất ngờ đó, bầy hypsilophodont bỗng nhảy cao lên trên không rồi nhảy liên tục trên đám cỏ như những con kangguru, bày rõ toàn bộ thân hình với các chân sau to khỏe, những chiếc đuôi dài dưới ánh mặt trời.
- Chúng ta đã xem qua mấy con thú thuộc loài ăn cỏ, bây giờ chúng ta đi tiếp, xem những con lớn hơn một chút.
Chiếc Land Cruiser tiếp tục tiến tới về phía nam xuyên qua công viên kỷ Jura.
(Bạn đang đọc truyện tại KenhTruyen.Wap.Sh chúc các bạn vui vẻ)
Trong phòng điều khiển, John Arnold nghe thấy tiếng bánh xe răng cưa của mấy chiếc Land Cruiser. Ông nói:
- Hãy xem lại các khớp ly hợp của các chiếc BB4 và BB5 khi chúng trở về.
- Vâng, thưa ông Arnold. - Một giọng trả lời ở intercom.
Hammond đang đi quanh phòng. Lão nói:
- Một tiểu tiết.
Nhìn ra, lão có thể thấy hai chiếc Land Cruiser chạy xuyên qua công viên. Muldoon đứng trong một góc, yên lặng quan sát. Aronold từ bảng điều khiên của mình đẩy ghế lui:
- Thưa ông Hammond chẳng có vấn đề nào là tiểu tiết cả.
Ông ta đốt một điếu thuốc khác. Luôn căng thẳng. Đặc biệt bây giờ Arnold đang cáu kỉnh. Chả là ông quá biết rằng đây là lần đầu tiên khách thật sự đi tham quan công viên. Thật ra, đội kỹ thuật của Arnold không thường xuyên ra công viên. Harding, bác sĩ thú y thỉnh thoảng mới đi. Các nhân viên chăm sóc thú chỉ đi vào những ngôi nhà cho ăn riêng. Còn thì họ chỉ canh chừng công viên từ phòng điều khiển. Và bây giờ với những người khách ngoài kia, ông ta lo lắng đến cả trăm chuyện linh tinh.
John Arnold là một kỹ sư đã từng làm việc trên tàu ngầm Polaris có hệ thống phóng hỏa tiễn tử dưới nước vào cuối thập niên 60 cho đến khi ông có đứa con đầu lòng và cái viễn cảnh chế tạo vũ khí chẳng còn mùi mẽ gì nữa. Trong lúc đó, Walt Disney đã bắt đầu sáng tạo những hệ thống chuyển du khách đi quanh công viên giải trí với những kỹ thuật tinh vi hiện đại, họ đã thuê nhiều người trong lãnh vực hàng không làm việc. Arnold đã giúp xây nên Disney World ở Orlando, và rồi tiếp tục xây dựng các công viên lớn ở Magic Mountain bang California, Old Coconty ở bang Virgina và Aotroworld bang Houston.
Trong hai năm qua, công việc của Arnold là chuẩn bị cho công viên đi vào sử dụng. Với tư cách là một kỹ sư, ông đã quen với các thời gian biểu dài ngày. Ông thường nhắc đến "ngày khai trương vào tháng chín" Trong đó ông có ý nói tháng chín năm tới - và khi ngày khai trương tháng chín gần kề, ông không thấy vui vẻ với những gì đã thực hiện được. Theo kinh nghiệm ông biết rằng đôi khi phải mất hàng năm để tìm ra những lỗi kỹ thuật của một chuyến di chuyển quanh công viên.
Hammond nói với Arnold:
- Anh chỉ là một kẻ hay lo.
- Tôi không nghĩ thế. Ông phải nhận rằng, theo quan điểm kỹ thuật, công viên kỷ Jura đã vượt quá xa tham vọng về một công viên. Khách viếng không bao giờ nghĩ đến điều đó, nhưng chúng tôi nghĩ đến.
Arnold đưa từng ngón tay lên.
- Thứ nhất, công viên có tất cả các vấn đề của một công viên giải trí - duy trì bảo quản những phương tiện chuyên chở, điều khiển việc bốc xếp hàng, vận chuyển thức ăn, tiện nghi lưu trú, thanh lý rác rưởi, an toàn cho du khách. Thứ hai, chúng ta có tất cả các vấn đề của một sở thú lớn - chăm sóc, sức khỏe và phúc lợi; nuôi thú ăn và giữ sạch sẽ chuồng trại; bảo vệ thú tránh côn trùng cùng các thú vật có hại khác, dịch bệnh, dị ứng, bảo quản rào chắn và mọi thứ. Cuối cùng, chúng ta có những vấn đề chưa từng gặp trước đây là chăm sóc cho một mật độ thú dày đặc mà chưa một ai từng thử làm.
Hammond:
- Ồ, nhưng chúng ta chẳng gặp gì tệ hại với tất cả những thứ đó.
- Có đấy chứ. Chỉ vì ông không có mặt ở đây để thấy. Mấy con tyrannosaurus uống nước trong hồ và đôi khi đau ốm, chúng tôi không biết tại sao. Những con triceraptor giết lẫn nhau trong các trận đấu giành quyền đầu đàn và phải chia thành từng đàn không quá sáu con. Chúng tôi không biết tại sao. Những con stegosaur thường xuyên có những vết rộp ở lưỡi và đi tiêu chảy, vì những lý do gì chưa ai biết, dù chúng tôi đã mất hai con. Các con hypsilophodont thì thường nổi mẩn ở da, con velociraptor thì…
- Thôi, chúng ta hãy ngưng nói đến những con velociraptor đã. Tôi đã phát ốm lên vì nghe mãi về những con này. Chúng thật là những con thú vô lại chưa từng thấy.
Muldoon nói, bằng giọng nhỏ:
- Đúng vậy. Nên đem hủy diệt hết những con này.
Hammond:
- Anh muốn gắn cho chúng những vòng cổ phát sóng. Và tôi đã đồng ý.
Arnold:
- Vâng. Và chúng lập tức cắn đứt. Nhưng cho dù mấy con raptor này không bao giờ có thể thoát ra khỏi chuồng được, tôi nghĩ chúng ta phải thừa nhận rằng công viên vẫn dễ gặp điều bất trắc. Hammond:
- Ồ, chỉ là chuyện nhảm nhí. Anh đang đứng về phía nào đấy?
- Hiện giờ chúng ta đang có mười lăm loại thú tuyệt chủng, và phần lớn đều rất nguy hiểm. Chúng ta bắt buộc phải hoãn các chuyến chuyên chở trên sông vì những con dilophosaur, và khu tham quan Pteratop trong khu trại lồng vì lũ ptenodactyl tính khí bất thường. Đấy không phải là những trì hoãn kỹ thuật, thưa ông Hammond.
- Anh đã có khối chuyện phải trì hoãn vì kỹ thuật. Đừng đổ lỗi cho lũ thú.
- Vâng, đúng vậy. Thật sự, chúng tôi đã làm mọi thứ để có được sự hấp dẫn du khách, xe điện xuyên công viên, hoạt động rất chính xác, trong mỗi xe đều có CD - ROM điều khiển bằng các bộ cảm ứng chuyển động. Đã phải mất bao nhiêu tuần lễ để làm chúng vận hành chính xác. Và bây giờ hệ thống trục răng của điện trên mấy chiếc xe đang có vấn đề? Mấy chiếc trục răng cưa chết tiệt!
- Hãy giải quyết công việc đó sau. Anh đã có được sự chính xác về kỹ thuật và lũ thú sẽ ở đúng các vị trí qui định. Rốt cuộc, chúng vẫn có thể huấn luyện được.
Từ lúc bắt đầu, đây là một trong những điều tin tưởng cốt lõi của các nhà lập kế hoạch. Lũ thú, cho dù khó tính, sẽ có những tập tính như các con thú ở bất cứ sở thú nào. Chúng sẽ học được những thói quen về sự chăm sóc của họ.
- Còn về computer thì sao? - Hammond hỏi và nhìn Dennis Nedry, đang làm việc ở góc cuối phòng - Thứ computer quỷ tha ma bắt này luôn là chuyện nhức đầu.
Nedry vẫn làm việc:
- Chúng tôi đang hoàn thiện hệ thống.
- Nếu anh làm đúng ngay từ đầu… - Hammond bắt đầu rền rĩ, nhưng Arnold đã đặt một tay lên vai lão để làm dịu cơn tức. Ông biết không nên gây căng thẳng với Nedry trong lúc anh ta làm việc.
Đấy là cả một hệ thống lớn. Nhất định phải có những sai sót.
Thật vậy, danh mục chi tiết kỹ thuật sai sót lên đến 130 mục, gồm nhiều thứ kỳ cục. Ví dụ, chương trình cho súc vật ăn tự thiết lập lại sau mười hai tiếng chứ không phải hai mươi bốn tiếng, và không cho ăn vào các chủ nhật. Vì lý do đó, các nhân viên không sao tính toán chính xác số lượng thực phẩm lũ thú dùng.
Hệ thống an toàn, vốn điều khiển tất cả các cánh cửa mở bằng thẻ an toàn, bị mất tác dụng khi nguồn điện chính bị cắt là đương nhiên, nhưng lại không hoạt động trở lại khi được cung cấp điện bằng nguồn phụ. Chương trình an toàn chỉ vận hành với nguồn năng lượng chính.
Chương trình duy trì ánh sáng, theo thiết kế chỉ bật đèn mờ sau mười giờ đêm, nay lại chỉ hoạt động vào một số ngày trong tuần.
Chương trình phân hủy phân tự động được lập để kiểm tra các ký sinh trùng trong phân thú đã luôn luôn ghi nhận là mọi thứ phân của các chủng loại thú đều có các ký sinh phagostomum venulosum, mặc dầu không có thứ phân nào có ký sinh đó cả, do đó nó tự động phân phát thuốc cho vào thức ăn của thú. Nếu một nhân viên chăm sóc gạt bỏ thuốc ra khỏi phễu để khỏi bị cho vào thức ăn thì hệ thống báo động kêu vang lên mà không thể nào ngắt được.
Và cứ thế, các lỗi lầm cứ được ghi vào trang này đến trang khác.
Khi mới đến, Dennis Nedry có cảm tưởng rằng anh ta sẽ sửa chữa tất cả những lỗi máy trong một tuần lễ. Nhưng anh ta xám mặt khi thấy bảng danh sách. Bây giờ, anh đang gọi cơ sở của mình ở Cambridge, bảo các nhà lập chương trình là họ sắp phải hoãn lại các dự định nghỉ cuối tuần để làm việc suốt đến thứ hai. Và anh ta cũng đã cho Arnold hay là cần đến tất cả các điện thoại liên lạc giữa Isla Nublar và đất liền để chuyển các số liệu chương trình đi và đến cho những người lập chương trình của mình.
Trong khi Nedry làm việc, Arnold mở hé một cửa sổ tại phòng điều khiển từ xa của mình. Việc này cho phép Arnold thấy những gì Nedry đang làm tại góc phòng trước bảng điều khiển. Không phải ông không tin tưởng Nedry. Nhưng Arnold chỉ thích biết những gì đang diễn biến ở đấy.
Ông nhìn vào biểu đồ trên màn điều khiển bên phải, đang chỉ đường đi của mấy chiếc Land Cruiser. Hai xe đang chạy dọc theo con sông, về phía bắc của khu lồng nuôi thú bay.
Giọng nói tiếp tục hướng dẫn:
- Nếu quý vị nhìn qua phía trái thì sẽ thấy mái vòm của khu chuồng nuôi khủng long bay, chưa hoàn thành để đón du khách - Tim thấy ánh mặt trời chiếu hắt ra từ những vòng tròn bằng nhôm trắng ở xa xa - Và ngay phía dưới chuồng lồng là con sông thuộc kỷ Mesogoic, nơi mà nếu may mắn quý vị có thể thoáng thấy một con thú săn thịt hiếm có. Xin hãy nhìn kỹ, tất cả các quý vị.
Bên trong chiếc Land Cruiser, màn hình cho thấy một cái đầu như đầu chim, trên đỉnh đầu có một cái mào đỏ chói. Nhưng mấy người trong xe Tim đang nhìn ra cửa sổ. Chiếc xe chạy men theo rìa núi cao nhìn xuống một con sông chảy xiết phía dưới. Con sông hầu như bị che kín hai bên bởi những tàn lá rậm rạp. Giọng nói:
- Đấy chúng đang ở đấy. Các con thú quý vị đang nhìn gọi là con dilophosaur.
Tim chỉ thấy một con. Con dilophosaur ngồi xổm trên hai chân sau bên dòng suối, đang uống nước. Con vật có hình dáng của một loài chim ăn thịt, đuôi to, chân sau mạnh, và chiếc cổ dài. Thân hình cao ba mét có từng khoanh tròn vàng và đen như một con báo.
Nhưng chính cái đầu con vật khiến Tim chú ý. Hai chiếc mồng cong chạy suốt đỉnh đầu, từ hai mắt xuống sống mũi, gặp nhau ở chính giữa làm thành một chữ V. Hai chiếc mồng có vằn đỏ đen, trông phảng phất hình ảnh của một con két hay con tu-căng. Con thú đang kêu lên những tiếng như cú rúc.
Lex nhận xét:
- Con thú dễ thương ghê.
Giọng ghi âm:
- Dilophosaurus là một trong những loài khủng long săn mồi thịt xuất hiện sớm nhất trên quả đất. Các nhà khoa học đã từng cho rằng bắp thịt hàm của chúng quá yếu không giết con mồi được và nghĩ rằng chúng là những con thú ăn xác súc vật chết. Nhưng bây giờ chúng tôi biết chúng là những con thú có chất độc làm chết con mối.
Những tiếng kêu như cú rúc của con dilophosaurus lại văng vẳng trong bầu không khí buổi chiều đưa đến tai họ. Lex nhỏm lên trên ghế của mình giọng bất an:
- Chúng có độc thật sự không, chú Regis?
- Đừng có bận tâm chuyện ấy.
- Nhưng chúng có độc không?
- Ờ có đấy, Lex.
Giọng nói:
- Cùng với những loại bò sát hiện nay như rắn đầu quỷ Gila, rắn roi, con dilophosaurus chứa độc hematotoxin trong những tuyến ở miệng. Cú cắn của nó gây hôn mê bất tỉnh trong vòng vài phút. Rồi thì con khủng long cứ từ từ đánh chén con mồi của mình. Con dilophosaurus là một con thú đẹp nhưng nguy hiểm chết người trong số thú quý vị đang thấy trong công viên.
Chiếc Land Cruiser quẹo ở một góc, để lại con sông đằng sau. Tim nhìn lui, hy vọng một lần nữa thấy con dilophosaurus. Thật đáng ngạc nhiên! Khủng long độc? Cậu ước chi có thể dừng xe lại, nhưng mọi thứ đều tự động. Và cậu biết chắc tiến sĩ Grant cũng muốn dừng xe.
- Nếu quý vị nhìn lên dốc đứng phía phải, quý vị sẽ thấy Les Gigantes, công trường xây phòng ăn ba sao siêu việt của chúng tôi. Đầu bếp trưởng Alain Richard của nhà hàng Le Baumiere ở Pháp nổi tiếng khắp thế giới được mời đến đây. Quý vị có thể gọi đặt buổi ăn bằng cách quay số bốn tại phòng khách sạn quý vị.
Tim nhìn lên dốc, nhưng không thấy gì cả.
Ed Regis giải thích:
- Nói thế nhưng lúc này chưa có. Nhà hàng này thậm chí còn chưa được xây dựng cho đến sau tháng mười một.
- Tiếp tục đi thăm, kế đây chúng ta sẽ xem loài ăn cỏ thuộc nhóm ornithiechian. Nếu nhìn qua bên phải, có thể quý vị sẽ thấy chúng vào lúc này.
Tim thấy hai con thú đứng bất động trong bóng râm của một cây lớn: hai con triceraptor. Chúng màu xám và to cỡ bằng con voi với dáng đứng hùng hổ của một con tê ngu. Phía trên mỗi mắt có một chiếc sừng dài một mét rưỡi, cong cong, trông giống như ngà voi. Và chúng đều có mõm dài, nhọn của một con tê ngu. Giọng nói:
- Không giống như các khủng long khác, con triceraptor serratus không nhìn thấy rõ. Chúng cận thị, như các tê ngu ngày nay, và chúng có khuynh hướng ngạc nhiên với các vật di động. Chúng có thể tấn công xe chúng ta nếu chúng ở gần đủ để thấy xe. Nhưng xin quý vị cứ yên tâm, ở đây, chúng ta có đủ khoảng cách an toàn.
- Các con triceraptor có mồng hình quạt phía sau đầu. Mồng được cấu tạo bằng xương cứng và rất mạnh. Mỗi con thú này cân nặng bảy tấn. Bất chấp vẻ bên ngoài, thật ra chúng rất dễ bảo. Chúng quen với các người chăm sóc, và chúng chịu để cho vuốt ve. Đặc biệt, chúng rất thích được gãi ở vùng hông.
Lex nói:
- Tại sao chúng không cử động? - cô bé quay cửa xuống - Ê, mấy con khủng long ngu ngốc? Nhúc nhích đi chứ!
Ed Regis bảo Lex:
- Ấy cháu đúng chọc mấy chú ấy.
- Sao vậy? Chúng ngốc nghếch như thế. Chúng ngồi đấy như ảnh trong sách.
Giọng ghi âm vẫn đang thuyết minh:
- … Những con quái vật dễ tính từ một thế giới đã trôi qua sắp xuất hiện trước mắt quý vị. Loài thú ăn thịt nổi danh nhất trong lịch sử trái đất: con khủng long bạo chúa dũng mãnh, có tên là tyrannosaurus rex.
Tim nói như reo lên:
- Hay quá. Con tyrannosaurus rex.
Lex quay mình khỏi mấy con triceraptor:
- Em hy vọng con này thú vị hơn mấy con thú khở kia.
Chiếc Land Cruiser tiếp tục chạy tới ro ro.
BẠO CHÚA KHỔNG LỒ
- Loài tyrannosaurus ra đời chậm trong lịch sử khủng long. Khủng long ngự trị quả đưa đất trong một trăm hai mươi triệu năm, nhưng chỉ đến mười lăm triệu năm cuối thời kỳ này mới có loài khủng long bạo chúa.
Hai chiếc Land Cruiser đã dừng lại trên một đỉnh đồi. Họ nhìn bao quát một vùng rộng phủ rừng chạy thoai thoải xuống một hồ vịnh. Mặt trời đang lặn dần xuống phía tây, chân trời mù sương. Toàn bộ quang cảnh của công viên đẫm trong một ánh sáng nhạt, với những bóng cây đổ dài. Mặt vịnh chín màu hồng thắm. Xa hơn về phía nam, họ thấy những chiếc cổ mềm mại của những con camarasuar đứng ở rìa nước, thân hình in bóng xuống mặt hồ vịnh gợn sóng lăn tăn. Trời đất yên lặng, trừ âm thanh o o của những con ve sầu. Khi nhìn chăm chú vào cảnh vật trước mặt, thật không thể nào tin rằng họ đang thật sự đi ngược lại quá khứ hằng bao nhiêu triệu năm đến một thế giới đã biến mất. Tiếng Regis trong intercom:
- Cảnh sắc trông được đấy chứ, thưa quý vị? Thỉnh thoảng tôi cũng hay đến đây, vào buổi chiều. Và chỉ ngồi ngắm.
Grant không bị cảnh vật gây ấn tượng. Ông hỏi:
- Mấy con tyrannosaurus rex đâu?
- Câu hỏi đúng lúc đấy? Có một con nhỏ vẫn thường thấy ở hồ. Hồ có rào chắn ở dưới nước, chúng tôi nuôi cá trong ấy. Nó học biết được cách bắt cá. Xem nó bắt cá thật thú vị. Nó không dùng hai chi trước, mà vục đầu xuống nước. Như một con chim.
- Một con nhỏ?
- Con T-rex nhỏ. Nó ở độ tuổi vị thành niên, hai năm tuổi. Đứng cao hai mét rưỡi, nặng một tấn rưỡi. Còn một con nữa là con tyrannosaur đã trưởng thành, lớn đủ mức. Nhưng vào lúc này, chúng ta không thấy nó.
Grant:
- Có lẽ nó đang săn bắt mấy con camarasaur.
Regis cười, tiếng nghe nho nhỏ qua vô tuyến.
- Nó sẽ săn mồi ngay nếu nó có thể đi săn được, hãy tin vậy. Đôi lúc nó đứng cạnh hồ và nhìn chằm chằm vào mấy con thú ấy, rồi ve vẩy hai chi trước trong nỗi thất vọng. Lãnh địa của con T-rex hoàn toàn bị cô lập với rào chắn và hào sâu. Nó đứng đâu đó ta không thấy được, nhưng nó không thể đi đâu được.
- Vậy nó đâu?
- Nó giấu mình. Nó hơi e thẹn.
Malcolm ngạc nhiên:
- E thẹn? Khủng long bạo chúa mà e thẹn?
- Vâng thường nó luôn luôn ẩn mình. Quý vị không bao giờ thấy nó ngoài trời, đặc biệt là dưới ánh nắng.
- Tại sao vậy?
- Chúng tôi cho rằng da chúng mẫn cảm và dễ bị rám nắng.
Malcolm bắt đầu cười ra tiếng. Grant thở dài:
- Anh đang phá hoại nhiều ảo ảnh.
Regis:
- Nhưng tôi nghĩ là quý vị sẽ không thất vọng. Cứ chờ xem.
Họ nghe tiếng kêu be be nho nhỏ. Ở chính giữa cánh đồng, một chiếc lồng sắt được nâng bằng thủy lực từ dưới hầm lên mặt đất. Các thanh lồng bằng sắt trượt xuống và con dê vẫn bị buộc ở giữa đồng, kêu be be não nùng. Tiếng Regis nhắc lại:
- Xin chú ý, sự việc xẩy ra bất cứ phút nào.
Họ nhìn chăm chú qua cửa sổ.
*
Hammond nhìn các màn hình điều khiển trong phòng:
- Hãy nhìn họ xem. Chồm hết ra ngoài cửa xe, có vẻ háo hức. Họ không thể chờ để xem con vật. Họ đang đến gần sự nguy hiểm.
Muldoon:
- Đấy là điều tôi đang lo sợ. - Ông ta xoay xoay mấy chiếc chìa khóa quanh ngón tay, nhìn mấy chiếc Land Cruiser căng thẳng. Đây là lần đầu tiên có khách tham quan công viên, và Muldoon cùng chia sẻ nỗi lo ngại với Arnold.
Robert Muldoon là một người to con, năm mươi tuổi, râu mép rậm màu xám chì, mắt xanh sâu. Lớn lên ở Kenya, ông đã dùng phần lớn cuộc đời mình làm người hướng dẫn cho các tay đi săn lớn ở châu Phi, như cha ông ta đã làm trước đó. Nhưng từ năm 1980, ông làm việc chủ yếu cho những nhóm bảo tồn thiên nhiên và những nhà thiết kế sở thú với tư cách là người tư vấn về thú hoang. Ông nổi tiếng, và tờ Time ra ngày chủ nhật ở London đã viết: "Những gì ông Robert Jones làm là cho các sân chơi golf còn của Robert Muldoon là cho sở thú: một nhà thiết kế với kỹ năng và kiến thức không ai qua mặt được".
Năm 1986, ông làm việc cho một công ty ở San Francisco, tức công ty đang xây cất một công viên tư nuôi thú hoang trên một đảo ở Bắc Mỹ. Muldoon đã thiết kế những khu ở cho các loại thú khác nhau, xác định những yêu cầu về khoảng không gian và nơi sinh cho sư tử, voi, ngựa vằn và hà mã. Ông phân loại các thú nào có thể nuôi chung được với nhau, con nào cần phải nuôi riêng.
Trước đó, công việc này vẫn theo một lề thói cũ. Và rồi ông thấy rất thích thú với một công viên ở Ấn Độ gọi là Tiger World ở miền nam Kashmir.
Rồi cách đây một năm, ông được đề nghị làm người tổ chức các trò thăm thú giải trí ở công viên kỷ Jura. Việc này trùng hợp với ý muốn rời châu Phi của ông; lương tháng thì quá tuyệt diệu. Muldoon đã theo công việc này trong một năm. Ông ngạc nhiên phát hiện ra công viên này thật sự là một nơi tập trung những thú tiền sử có được do kỹ thuật di truyền.
Đấy dĩ nhiên là một công việc thú vị, nhưng suốt những năm ở châu Phi, Muldoon đã phát triển một quan điểm bất di bất dịch về loài thú - quan điểm phi lãng mạn - gây cho ông sự cãi cọ thường xuyên với ban quản đốc công viên kỷ Jura ở California. Theo ý kiến Muldoon, tái tạo được khủng long trong phòng thí nghiệm là một việc, duy trì chúng sống được trong hoang dã là một việc khác.
Chính là do quan điểm của Muldoon cho rằng một số loài khủng long quá nguy hiểm để nuôi nhốt trong công viên. Họ vẫn còn biết quá ít về số loài khủng long này. Ví dụ không ai cho rằng các con dilophosaur có mang chất độc cho đến khi quan sát được chúng lúc săn mồi: chúng cắn những con chuột trên đảo rồi bước lui, chờ chuột chết. Và thậm chí chẳng ai ngờ rằng các con dilophosaur có thể thè lưỡi phóng độc cho đến khi một người chăm sóc gần như mù mắt vì chất độc chúng phóng ra.
Sau đó, Hammond bằng lòng cho nghiên cứu chất độc của con dilophosaur và tìm thấy có chứa bảy độc tố khác nhau. Và họ cũng phát hiện ra là con dilophosaur có thể phóng độc tới con mồi khoảng cách mười lăm mét! Vì điều này cho thấy khả năng du khách có thể bị phóng độc làm mù mắt, ban quản đốc quyết định mổ lấy đi túi chứa nọc độc. Các bác sĩ thú ấy đã cố thử hai lần, với hai con khác nhau, những chẳng lần nào thành công. Không một ai biết được chất độc nằm ở chỗ bí mật nào, và sẽ không một ai biết được cho đến khi có dịp khám nghiệm và mổ xác một con chết - nhưng dĩ nhiên ban quản lý chưa cho phép một con nào bị giết chết.
Muldoon thậm chí còn lo ngại hơn về mấy con velociraptor. Lũ thú này săn mồi theo bản năng, và không bao giờ bỏ qua con mồi. Chúng giết mồi ngay cả khi chúng không đói. Chúng giết vì niềm vui của việc giết mồi. Chúng là những con vật chạy rất nhanh, và nhảy cao đáng ngạc nhiên. Bốn chân chúng có nhiều móng vuốt chết người, một cú chụp của chi trước có thể xẻ dọc một người, banh cả ruột gan ra ngoài. Và chúng có đôi hàm mạnh mẽ có thể xé thịt thay vi cắn. Chúng thông minh hơn các con khủng long khác rất nhiều và chúng hình như là các con thú chuyên phá chuồng do bản tính tự nhiên.
Các chuyên gia sở thú biết rằng một số thú nhất định nào đó đặc biệt ưa trốn thoát khỏi chuồng. Khỉ và voi, có thể mở cửa chuồng. Một số khác, như lợn rừng, thông minh một cách bất thường, có thể nâng then gài cửa chuồng bằng mõm. Nhưng có ai ngờ rằng một con cừu khổng lồ là một con vật chuyên phá chuồng? Hay con nai Bắc Mỹ. Loài nai này hầu như rất thiện nghệ trong việc dùng mõm như voi dùng ngà vòi. Chúng luôn thoát được chuồng, rất tài trong việc này.
Và mấy con velociraptor cũng thế!
Raptor ít ra cũng khôn như loài hắc tinh tinh. Và như con hắc tinh tinh, lũ raptor có đôi tay khéo léo cho phép chúng mở được cửa và sử dụng các đồ dùng bằng tay. Chúng có thể thoát chết dễ dàng. Và, như Muldoon đã từng lo so, khi cuối cùng một con trốn thoát, giết chết hai công nhân công trường và làm bị thương nặng một người khác trước khi bị bắt lại. Sau tai biến đó, khu dành cho khách viếng được xây dựng lại với các hàng rào chấn song to, chắc và cao. Các cửa sổ được thay bằng loại kính không bể, khu nhốt raptor được xây lại với nhiều bộ cảm ứng để báo động khi có raptor sắp trốn thoát. Muldoon muốn trang bị súng nữa. Ông muốn có những khẩu súng phóng hỏa tiễn TOW bắn bằng cách vác trên vai. Các tay đi săn đều biết là rất khó khăn mới hạ được một con voi châu Phi bốn tấn, thế mà một vài con khủng long ở đây nặng gấp mười lần hơn.
Ban quản đốc sợ, nhất quyết không cho có súng ở trên đảo. Khi Muldoon dọa sẽ thôi việc, và đem chuyện này phanh phui cho báo chí, họ mới có được một thỏa thuận. Cuối cùng, hai súng phóng hỏa tiễn điều khiển bằng tia laser được chế tạo riêng cho đảo được cất giữ trong một phòng khóa kỹ ở tầng hầm. Chỉ Muldoon có chìa khóa mở phòng. Mấy chiếc chìa khóa mà lúc này Muldoon đang quay quanh ngón tay. Ông nói:
- Tôi xuống hầm đây.
Arnold đang nhìn màn hình điều khiển, gật đầu. Hai chiếc Land Cruiser đỗ tại đỉnh rồi, chờ con T-rex xuất hiện.
Nedry từ bảng điều khiển ở góc phòng, gọi với lại:
- Ê, khi nào lên, nhớ mang cho tôi một chai coca, nhé?
*
Grant chờ trong xe, yên lặng trông chừng. Tiếng kêu be be của con dê vang lên to hơn, gây chú ý hơn. Con vật điên cuồng giật mạnh sợi dây buộc, chạy tới chạy lui, qua vô tuyến, Grant nghe tiếng Lex giọng lo lắng:
- Việc gì sẽ xẩy ra cho con dê? Con T-rex có ăn thịt nó không?
Một giọng trả lời cô bé:
- Chắc là vậy.
Và Ellie vặn nhỏ vô tuyến lại. Rồi họ ngửi thấy mùi hôi thối của thức ăn thối rữa bốc lên. Grant thì thào:
- Nó kia rồi.
Con dê bị buộc giữa cánh đồng cách đấy gần nhất cũng phải ba mươi mét, con khủng long hẳn ở đâu đó giữa đám cây, nhưng vào lúc này, Grant không thấy gì cả. Rồi ông nhận ra rằng ông đang nhìn quá thấp: đầu con vật đứng cao cách mặt đất sáu mét, nửa ẩn nửa hiện sau những tán lá của đám cọ dừa.
- Ôi, Chúa ơi, con vật to bằng cả tòa nhà.
Grant nhìn chăm chăm vào chiếc đầu vuông khổng lồ dài một mét rưỡi, lốm đốm vằn nâu đỏ, với đôi hàm bự và răng nanh. Đôi hàm của con khủng long cử động, mỏ ra rồi ngậm lại. Nhưng con vật khổng lồ không ra khỏi chỗ núp:
- Nó sẽ chờ trong bao lâu?
- Có lẽ ba hay bốn phút. Có lẽ…
Con khủng long bạo chúa yên lặng nhảy vọt tới bày ra toàn thể thân hình khổng lồ của nó. Với bốn cú nhảy nó đã vượt hết khoảng cách tới con dê, cúi xuống, và cắn vào cổ con mồi. Tiếng be be tắt ngấm. Yên lặng.
Với tư thế đàng hoàng khi giết con mồi, con khủng long bỗng nhiên tỏ vẻ ngần ngại. Chiếc đầu hình khối vĩ đại quay trên chiếc cổ đầy bắp thịt, nhìn khắp mọi phía. Nó nhìn chòng chọc vào mấy chiếc Land Cruiser, đang đỗ trên đồi cao. Malcolm thì thào.
- Nó có thấy chúng ta không?
Giọng Regris qua intercom:
- Ồ, thấy chứ. Hãy xem xem nó ăn ngay ở đấy trước mặt chúng ta, hay nó sẽ kéo con mồi đi.
Con tyrannosaurus cúi xuống, khịt mũi ngửi xác con dê. Một tiếng chim kêu chíp chíp: nó ngẩng đầu lên cảnh giác, trông chừng. Nó nhìn tới nhìn lui, đầu giật giật. Ellie nhận xét:
- Trông như con chim.
Con khủng long vẫn do dự. Malcolm thì thầm:
- Nó sợ gì?
Grant đáp nhỏ:
- Có lẽ nó sợ một con khác.
Những con thú to lớn ăn thịt sống như sư tử và cọp thường rất cẩn thận sau khi giết con mồi, hành động như là có thể bất ngờ bị phát hiện. Các nhà nuôi thú thế kỷ 19 nghĩ rằng chúng cảm thấy có tội vì những gì chúng vừa làm. Nhưng các nhà khoa học hiện đại cho rằng đấy là chúng cảnh giác sau cố gắng giết mồi - sau những giờ kiên nhẫn bám theo trước khi tung cú chụp cuối cùng. Ý tưởng cho rằng "vuốt đã đỏ thì răng cũng đỏ" là sai; phần lớn các con mồi thường bị chiếm mất. Khi một con thú hạ được con mồi nó rất cảnh giác vì sợ bị tấn công và cuỗm mất phần. Con khủng long này cũng đang sợ.
Sinh vật khổng lồ cúi xuống con dê lần nữa. Một chân sau to lớn đè lên xác con vật khi đôi hàm bắt đầu xé thịt. Regis thì thầm:
- Nó sẽ ăn tại chỗ. Thật tuyệt.
Con khủng long lại ngẩng đầu lên, các miếng thịt tươi đầy máu dính ở hàm. Nó nhìn mấy chiếc Land Cruiser. Nó bắt đầu nhai. Họ nghe tiếng xương kêu rào rạo sởn cả gai ốc.
Và rồi, dường như sự cẩn thận cuối cùng làm nó cảm thấy yên tâm hơn, con tyrannosaur nhấc phần còn lại của con dê bằng hàm rồi lặng lẽ lui vào giữa đám cây.
Giọng thu thanh:
- Thưa quý ông quý bà. Đấy là con tyrannosaurus- rex.
Hai chiếc Land Cruiser lại khởi động, yên lặng rời chỗ, xuyên qua đám tán lá. Malcolm dựa vào ghế:
- Thật kỳ quái.
Gennaro chùi mồ hôi trán. Mặt ông ta xám ngắt.

.:Trang Chủ:.
Copyright © 2020 - Đọc Truyện - All rights reserved.