Đọc truyện
Sau khi rửa tay và dùng bữa, tôi với Montgomery ngồi lại bên nhau, cùng nghiêm túc bàn bạc về tình cảnh hiện tại. Bấy giờ đã gần nửa đêm. Montgomery không say, nhưng tâm thần có vẻ rối loạn lắm. Hắn đã quá phụ thuộc vào Moreau, và không tưởng tượng được một ngày kia, Moreau sẽ chết. Cái thế giới quen thuộc hơn 10 năm nay, cái thế giới đã trở thành 1 phần của chính hắn, nay bỗng nhiên sụp đổ tan tành. Hắn nói chuyện 1 cách mơ hồ, trả lời tôi 1 cách ấm ớ, trong khi cứ tự hỏi mình những câu vu vơ.
“Cuộc đời là 1 mớ bong bong ngu xuẩn” hắn ta thán “Tôi chưa bao giờ thật sự sống. Bao giờ thì cuộc sống của tôi mới bắt đầu đây? 16 năm lê lết trên ghế nhà trường, bị thầy đánh cô đập, 5 năm nghiến răng mà theo đuổi ngành Y khoa, thức ăn tồi tàn, nhà cửa luộm thuộm, áo quần dơ dáy. Lầm! Trời ơi là lầm! Vậy mà tôi còn chưa sáng mắt, còn vác thân ra cái đảo thú vật này. 10 năm trên cái đảo này! Rốt cuộc để làm gì hả Prendick? Chúng ta sinh ra trên đời, chẳng qua chỉ như những hạt bủi vẩn vơ trong gió, có phải không?”
Khó mà chịu nổi những lời than van bất tận của hắn. “Chuyện quan trọng phải tính bây giờ” tôi nói “là phải kiếm đường thoát khỏi hòn đảo.”
“Thoát ra rồi thì thế nào? Anh thì không lo, Prendick ơi, nhưng tôi giờ đây là kẻ bị ruồng bỏ. Tôi biết đi đâu? Còn ông già Moreau? Đành để ông ấy ở đây một mình cho quạ gặm xương hay sao? Và bọn người thú nữa, nhiều đứa trong bọn chúng vẫn còn tốt. Ta đi rồi, chúng sẽ ra sao?”
“Để ngày mai” tôi trả lời “Đống củi ngoài sân là 1 dàn thiêu thích hợp đấy. Ta sẽ hỏa táng Moreau. Bọn người thú thì không biết thế nào.”
“Không biết nữa. Có lẽ không sớm thì muộn, những đứa được tạo từ thú dữ sẽ lại lòi tính ác ra. Sẽ thoái hóa, chúng chắc chắn sẽ thoái hóa. Nhưng giết hết chúng đi thì không thể được.”
Hắn cứ nói theo kiểu ba phải cho đến khi tôi điên người lên.
“Mẹ nó!” hắn bực tức khi nhận ra sự nóng nảy từ tôi “Anh không thấy là tình cảnh của tôi còn tệ hại hơn của anh nhiều hay sao?” Hắn đứng lên đi rót rượu “Uống đi, ông thần hay nói trạng, uống!”
“Không” tôi đáp.
Cứ thế, tôi ngồi yên nhìn Montgomery dưới ánh đèn vàng, và cứ thế, hắn uống đến say quắt. Khi đã mềm người, hắn lè nhè lên tiếng ca ngợi bọn người thú và M’ling. M’ling là kẻ duy nhất thật sự quan tâm đến hắn, hắn bảo vậy. 1 ý nghĩ gì đó chợt nảy ra trong đầu hắn.
“À phải rồi” Hắn loạng chạng đứng dậy, cắp theo chai brandy.
Trực giác cho tôi biết hắn định làm gì. “Này, đừng cho con thú đấy uống rượu!”, tôi bật dậy, đứng cản đường hắn.
“Thú hả?” Hắn quát “Mày mới là thú. M’ling của tao sẽ uống rượu như 1 con chiên ngoan đạo. Cút đi, Prendick!”
“Vì Chúa!” Tôi cố nài.
“Cút, có nghe không?” hắn rống lên, rút súng ra cầm tay.
“Được thôi”, tôi bước tránh sang, định nhân lúc hắn mở cửa sẽ xông vào khống chế, nhưng rồi bỏ ngay ý định khi nhớ đến cánh tay đang bị gãy “Anh cũng thành thú rồi. Thú chơi với thú là phải.”
Montgomery giật tung cửa. Giữa ánh đèn bên trong và ánh trăng vàng vọt bên ngoài, hắn đứng đối mặt tôi, mắt trừng như 2 hột nhãn dưới đôi lông mày rậm.
“Mày là thằng lừa đạo đức giả, Prendick ạ. Cái gì mày cũng sợ. 2 đứa mình đã đến đường cùng rồi. Ngày mai tao sẽ tự cắt cổ, nhưng đêm nay thì tao đi chơi hội cái đã.” Hắn quay bước, đi về phía ánh trăng “M’ling, M’ling, bạn tôi đâu rồi?”
Dưới ánh trăng mờ, tôi thấy 3 cái bóng xuất hiện phía dưới bãi biển. 1 tên mình quấn vải trắng, 2 tên kia ở phía sau, tối quá không trông rõ. Chúng đang dừng chân, nhìn lên. M’ling cũng đã chạy ra từ phía góc nhà.
“Uống!” Montgomery kêu “Uống đi, anh bạn thú! Uống đi cho trở thành người! Mẹ, tao đây là người giỏi nhất! Bọn mày chưa biết rượu nên chưa thành người được chứ có gì đâu, thế mà Moreau không nghĩ ra. Uống đi, tao bảo uống mà!” Vung vẩy cái chai trên tay, hắn chạy về phía Tây. M’ling theo sau. 3 cái bóng kia cũng theo nốt.
Tôi đứng trên ngưỡng cửa nhìn theo. Chúng chỉ còn là những đốm nhỏ ở đằng xa. Montgomery đã dừng lại, hắn cho thằng M’ling tợp 1 hớp rượu, rồi cả 5 cái đốm như hợp lại thành 1.
“Hát đi!” Tiếng Montgomery “Cùng hát nào: Quỷ tha thằng già Prendick. Đúng rồi, hát lại nào: Quỷ tha thằng già Prendick!”
Đốm lớn lại tách ra thành 5 đốm nhỏ đi liêu xiêu dọc bờ biển. Chừng đã xỉn cả lũ, mỗi đứa hò hét 1 kiểu, đứa chửi tôi, đứa lè nhè cái gì không rõ. Montgomory hô “Bên phải, quay!”,rồi cả 5 cùng biến mất vào rừng cây. Im lặng lại bao trùm.
Chỉ còn lại nét kiêu sa tịch tĩnh của màn đêm. Trăng đã lên quá thiên đỉnh, đang bắt đầu ngả về Tây. Đêm nay trăng tròn và sáng, như đang tỏa sắc rực rỡ trên trời thanh, không 1 gợn mây. Bóng đen của bức tường đổ dài dưới chân tôi. Biển khuya chỉ còn là 1 khối mênh mông vô dạng hình, tối tăm và bí ẩn. Giữa biển và bóng tường là bãi cát dài tỏa sáng lung linh như ngọc. Như đua cùng trăng, ngọn đèn dầu sau tôi cũng rực lên hôi hổi.
Tôi khóa cửa, bước ra sân, nơi Moreau đang nằm bên những nạn nhân xấu số của ông: Chó săn, lạc đà không bướu, và vài con khác nữa. Phải đương đầu với cái chết khủng khiếp, song khuôn mặt rộng của Moreau vẫn điềm tĩnh lạ thường, cặp mắt ông vẫn mở, nhìn trừng trừng lên vầng trăng bạc. Tôi ngồi xuống cạnh bên và, giữa ánh trăng khuya cùng bóng đêm dọa dẫm, bắt đầu suy tính chuyện ngày mai. Sáng ra, tôi sẽ mồi lửa cho cái dàn thiêu này, rồi khuân ít thức ăn lên xuồng, 1 lần nữa bắt đầu cuộc đua cùng định mệnh giữa đại dương. Kệ thây Montgomery, hắn đã thành thú đến quá nửa rồi, có trở về thế giới con người cũng không sống được.
Tôi ngồi đó không biết đã bao lâu. Có lẽ phải đến hơn 1 tiếng đồng hồ, cho đến khi dòng suy nghĩ bị đứt đoạn bởi sự trở về của Montgomery và đồng bọn. Đủ loại âm thanh, đủ thứ tiếng hú hét kêu gào vang lên ngoài phía bờ biển, cả tiếng đánh nhau, tiếng gỗ đập, và tiếng tụng niệm lủng củng nữa. Song tôi không để ý, tôi tiếp tục tính cách chạy thoát. Đèn trên tay, tôi vào nhà kho kiếm mấy cái thùng hôm trước vừa thấy. Trong nhà kho có vài hộp bánh quy, tôi tò mò mở thử 1 hộp ra xem. Vừa ghé mắt nhìn đã phải quay đi ngay, vì trong ấy là 1 hình hài nhỏ xíu đỏ hỏn.
Khung cảnh sau lưng tôi vẫn thế, rõ mồn một dưới ánh trăng vằng vặc: Cái sân dài, ở giữa là đống củi gỗ, bên trên có Moreau và các nạn nhân của ông. Những thi thể nằm sát cạnh, như đang níu lấy nhau trong cơn sát phạt cuối cùng. Vết thương trên thân Moreau há hốc, đen như chính màn đêm, máu ông chảy xuống, đọng thành vũng trên nền cát. Nhưng gì kia? 1 đốm đỏ thoáng xuất hiện, rồi biến đi bên phía bức tường đối diện. Cho rằng đó là ánh sáng phản chiếu từ ngọn đèn đang lập lòe, tôi không để tâm, lại tiếp tục công việc kiếm tìm. Ráng hết sức với chỉ 1 tay, tôi khuân những vật dụng cần thiết để hết vào 1 chỗ để chuẩn bị cho chuyến đi ngày mai. Thời gian qua nhanh hay vì tôi quá chậm, chẳng mấy chốc mà trời đã rạng.
Bọn bên ngoài kia hết tụng niệm lại hò la, hết hò la rồi tụng niệm, sau rốt chỉ nghe thấy những âm thanh hỗn tạp chẳng rõ là gì. Có tiếng la “Thêm nữa! Thêm nữa!”, tiếng gây gổ, rồi tiếng rú thảng thốt. Nhận thấy như đang có biến chuyển gì khác lạ, tôi bước ra sân, chú ý lắng nghe. “Cạch”, 1 tiếng súng lên đạn khô khốc vang lên, như lưỡi dao cắt đứt màn hỗn độn.
Ngay lập tức, tôi chạy qua phòng mình, đến chỗ cánh cửa nhỏ. Trong lúc chạy, dường như tôi va va vào vật gì đó. Có tiếng rơi, rồi tiếng thủy tinh vỡ nát trên nền nhà. Nhưng đây đâu phải lúc quan tâm những chuyện đó. Tôi mở tung cửa, nhìn ra.
Ngoài bãi biển, bên bến thuyền, một ngọn lửa đang cháy rực, tàn bay bay trong ánh mờ triêu dương. Hàng lố những bóng đen tụ tập thành vòng tròn chung quanh đấy. Dường như Montgomery đang gọi tôi. Thủ súng bên người, tôi vội vàng chạy về phía ngọn lửa. Montgomery đã bắn, ánh lửa khạc ra từ họng súng của hắn. Nhưng sao ánh lửa ấy lại lóe sát mặt đất thế kia? Vậy là hắn đã ngã rồi. Lấy hết sức mình, tôi hét lên 1 tiếng dữ dội, vung súng bắn chỉ thiên. 1 người thú hô “Chủ Nhân!”. Đám đông lập tức tản mác ra, ngọn lửa ở giữa bùng lên rồi lại dịu xuống. Trong cơn cuồng loạn, tôi bắn theo lũ người thú khi chúng chạy lủi vào rừng cây. Trên mặt cát thù lù mấy đống người đen đen.
Montgomery nằm ngửa, bị Tuyên Giới Luật Sư đè lên trên. Luật Sư đã chết, nhưng móng vuốt còn bấu chặt lấy cổ hắn. Bên cạnh đó, M’ling nằm sấp, cổ bị xé rách toang, tay còn cầm chai brandy vỡ. 2 thân hình khác gục bên đống lửa: 1 bất động, 1 còn rên từng cơn. Kẻ đang rên thỉnh thoảng cố ngóc đầu lên, chỉ để lại gục xuống.
Tôi kéo Tuyên Giới Luật Sư ra khỏi Montgomery. Mặt Montgomery bầm đen, hơi thở thoi thóp. Tôi cởi áo khoác, cuộn lại, gối dưới đầu hắn, lại lấy nước biển vẩy lên mặt. M’ling chết từ lâu, còn tên cạnh đống lửa vẫn ngắc ngư. Nó là 1 người sói, chẳng biết thế nào mà đã bị thương lại còn nằm ngay trên mấy thanh củi đang còn nóng. Tôi cho nó 1 phát súng ân huệ, vì vết thương đã quá nặng, không cơ cứu chữa. Tên nằm chết bên cạnh nó là người bò, mình quấn vải trắng. Những đứa khác đều chuồn mất biệt.
Kết liễu xong người sói, tôi về với Montgomery, quì 1 bên hắn, tự trách mình sao quá dốt Y khoa. Chẳng biết Montgomery lấy củi đâu ra mà đốt lửa, nhưng nay thì ngọn lửa đã tắt, chỉ còn lại tàn tro, cùng 1 ít than. Bình minh đã rực hồng. Vầng dương từ phương Đông đang vươn lên đỏ ối, khiến chị Hằng ngày càng mờ đi trên nền trời xanh.
Chợt nghe tiếng huỳnh huỵch, xì xầm ở đằng sau, tôi ngoảnh lại, rồi khuỵu xuống, thét lên kinh hoàng. Giữa bình minh nắng ấm, 1 cuộn khói đen bốc lên ngùn ngụt, bao phủ cả khu nhà của Moreau, trong làn khói bùng lên những tia lửa đỏ như máu. Mái nhà bằng rơm đã bắt lửa rồi. Lửa phụt ra từ cửa sổ phòng tôi.
Thế là đã rõ. Tôi nhớ lại tiếng thủy tinh vỡ vừa nãy. Thì ra khi đang chạy đến giúp Montgomery, tôi đã làm đổ chiếc đèn dầu.
Hết rồi! Chẳng còn cứu vớt được cái gì trong khu nhà. Nghĩ đến kế hoạch đào thoát, tôi quay sang phía bến thuyền, nhìn xem 2 chiếc thuyền có còn ở đấy không. Thuyền đâu chẳng thấy, chỉ thấy 2 chiếc rìu cắm trên bãi cát, xung quanh đầy những gỗ vụn. Montgomery! Phải, chính hắn! Trong cơn say, chính Montgomery đã phá hủy thuyền đi, ngăn cản không cho tôi về lại thế giới loài người! Tro bay bên đống lửa tàn, và làn khói bốc, đó là tất cả những gì còn lại của 2 con thuyền ấy.
1 cơn giận đột ngột bốc lên, xâm chiếm lấy tôi. Suýt chút nữa thì tôi đập nát đầu của kẻ đang nằm thoi thóp dưới chân mình. Montgomery bỗng giơ tay lên, trông hắn yếu ớt và đáng thương, làm cho cơn giận trong tôi tan biến. Hắn rên lên khe khẽ, mở mắt ra rồi nhắm lại ngay. Tôi quỳ xuống, nâng đầu hắn lên. Hắn lại mở mắt, lặng yên nhìn bình minh, đoạn quay sang tôi. Mí mắt hắn cụp xuống.
“Xin lỗi,” hắn gắng gượng thì thào “Điều cuối cùng…Điều cuối cùng của cái thế giới ngu si này…Hỏng hết rồi…”
Tôi lắng nghe, nhưng hắn đã lịm đi, nghẹo đầu sang 1 bên. Có lẽ 1 ít nước sẽ khiến hắn tỉnh lại. Có điều kiếm đâu mà ra nước, và dù kiếm được nước, cũng chẳng còn bình, ấm gì để đựng mà mang đến. Montgomery dường như trở nên nặng hơn. Tim tôi chợt buốt lạnh. Tôi luồn tay vào áo hắn, đặt lên ngực. Ôi thôi! Hắn đã chết rồi. Giữa lúc hắn chết, mặt trời vươn cao, tỏa sáng khắp bốn phương, biến mặt biển thành 1 mặt gương rực rỡ. Ánh nắng chiếu xuống, như tỏa hào quang lên khuôn mặt đầy tử khí của Montgomery.
Tôi đặt đầu hắn xuống, đứng dậy. Bọn người thú không thấy đâu nữa, sau lưng tôi là đảo im lìm, trước mặt là biển hoang vu, khung cảnh tịch mịch đến vô cùng. Bao nhiêu lương thực và đạn dược nằm cả trong nhà, mà nhà nay đang bị bao trùm trong biển lửa. Chẳng còn nghe gì nữa, ngoài tiếng lách tách của lửa cháy, và thỉnh thoảng là tiếng cột đổ, xà rơi. Làn khói bốc lên, lan đến tận những cây cao đằng xa tít tắp, tan ra nơi hẻm núi, chỗ bọn người thú cư ngụ. Gần tôi hơn là 5 cái xác, và đống tàn tro của gỗ thuyền.
Từ trong rừng cây, 3 tên người thú tiến ra, dè dặt bước đến gần tôi. Vai chúng khòm, đầu chúng dô, đôi bàn tay cong queo xấu xí. Chúng nhìn tôi với cặp mắt thăm dò, chẳng mấy thân thiện.
(Bạn đang đọc truyện tại VipTruyen.Pro chúc các bạn vui vẻ)
S
ố trời đã định! Giờ đây 1 tay tôi phải xoay sở đối phó với lũ người thú. "1 tay" theo đúng nghĩa đen, vì tay kia của tôi gãy mất rồi. Trong túi tôi chỉ có khẩu súng với 2 ổ đạn rỗng không. Bên bãi biển còn 2 cái rìu Montgomery đã dùng phá thuyền. Vũ khí chỉ có vậy, tất cả chỉ trông chờ vào lòng can đảm của bản thân thôi. Biển sóng đang dâng.
Tôi nhìn xoáy vào mặt 3 tên người thú. Chúng lẩn tránh ánh mắt tôi, hếch mũi lên hửi hửi những thi thể nằm trên bờ cát. Tôi bước tới vài bước, lượm lấy cây roi da còn vương máu đang nằm bên xác người sói. Mấy tên kia dừng ngay lại.
"Cúi chào mau!" Tôi quát "Thấy tao sao không hành lễ?"
Chúng ngần ngừ. 1 tên khuỵu gối xuống. Tôi run thầm trong bụng, song ráng làm gan bước tới, ra lệnh 1 lần nữa. 1 tên quỳ xuống, 2 tên kia quỳ theo.
Tôi về chỗ các tử thi, nhưng vẫn quay mặt ngó chừng 3 tên người thú đang quỳ, như 1 diễn viên lên sân khấu đối mặt với khán giả.
"Chúng phạm Giới Luật" tôi nói, chân đạp lên Tuyên Giới Luật Sư "Và chúng đã trả giá. Cả Tuyên Giới Luật Sư, cả Nhị Tiên Chủ, ai phá Giới cũng đều bị trừng. Ghê thay Giới Luật! Chúng mày hãy lại mà xem."
Chúng đều tiến tới. "Không ai thoát được" 1 tên hô.
"Không ai thoát được" tôi lặp lại "Do đó chúng mày phải ngoan và nghe lệnh tao."
Chúng ngó nhau, vẻ hoang mang.
" Ở yên đấy" tôi lại quát.
Tôi quẳng cái rìu nhỏ của M'ling sang chỗ khác, lượm khẩu súng còn đạn của Montgomery lên. Trong túi hắn, tôi còn lục thêm được 1 ít đạn nữa.
"Lại đây" Tôi ra hiệu bằng roi da "Khiêng Nhị Tiên Chủ lên, quăng ông ấy ra ngoài biển."
Chúng vẫn sợ Montgomery, nhưng xem ra còn sợ cây roi da của tôi hơn. Sau 1 hồi do dự và lóng ngóng, phải đợi đến khi tôi hét và quật roi thêm lần nữa, chúng mới dám rón rén nâng thi thể Montgomery ra ngoài bờ biển, bước xuống nước.
"Ra nữa! Ra xa nữa!"
Chúng ra xa đến chỗ nước lên đến nách, xong quay lại nhìn tôi.
"Được rồi", tôi ra hiệu, và bõm 1 tiếng, thi thể Montgomery đã chìm sâu. Ngực tôi như nghẹn lại.
"Tốt lắm!", tôi khen chúng mà giọng như vỡ ra. Chúng sợ sệt vội vã quay vào bờ, tạo ra những làn sóng đen trên mặt biển bạc. Về đến mé nước, chúng quay lại nhìn ra đại dương, như sợ Montgomery sống lại, nổi lên báo thù.
"Đem quẳng nốt mấy đứa kia đi!", tôi chỉ mấy thi thể còn lại.
Chúng y lời, nhưng không dám táng bọn kia cùng chỗ với Montgomery. Chúng khiêng 4 cái xác theo đường xéo, cách chỗ cũ đến cả trăm thước, rồi mới quẳng xuống. Khi chúng đang khiêng cái thi thể không còn toàn vẹn của M'ling, tôi nghe thấy tiếng động sau lưng. Ra là linh cẩu-heo. Nó đứng cách đấy chừng chục thước, đầu cúi, mắt ngó tôi chằm chằm. 2 bàn tay thô bè của nó siết chặt, để sát bên thân. Khi thấy tôi quay lại, mắt nó hơi dao động.
Nhìn nó trong giây lâu, tôi quăng roi, đưa tay vào túi tìm súng. Trong lũ người thú còn sống sót trên đảo này, linh cẩu-heo là đứa đáng sợ nhất, phải tìm cớ giết nó ngay. Hơi tàn nhẫn, nhưng chẳng còn cách nào khác. Một mình nó bằng 2 những con khác. Nó còn sống ngày nào là ngày đó còn nguy cho tôi.
Sau chừng 10 giây để củng cố quyết tâm, tôi ra lệnh "Hành lễ mau! Quỳ xuống!"
Hắn nhe răng đe dọa "Mày là thằng nào mà tao phải..."
Tôi rút súng, nhắm bắn ngay, nhưng có lẽ hơi run nên không trúng. Linh cẩu-heo tru lên ăng ẳng, quay đầu bỏ chạy. Tôi vội vàng lên đạn, định bồi thêm phát nữa, nhưng nó đã chạy xa, sàng qua sàng lại theo đường dích dắc. Thế này thì rất khó bắn, cần tiết kiệm đạn, không thể phí thêm viên nữa được. Sau mấy lần quay đầu ngó tôi, linh-cẩu heo đã biến mất sau khu nhà cháy, nơi khói đen vẫn đang nghi ngút. Tôi ra dấu cho 3 tên người thú quẳng nốt thi thể cuối cùng, đoạn trở về chỗ đống lửa tàn, lấy chân lùa cát lên, lấp đi những vệt máu.
Sau khi vẫy tay cho phép 3 tên nô lệ tháo lui, tôi đi ngược từ bãi biển lên phía rừng cây, súng trong tay, roi da và rìu trên băng đeo. Nghĩ đến tình cảnh đơn thương độc mã hiện tại mà phát kinh. Mãi đến phút này, tôi mới nhận ra rằng giờ đây, trên hoang đảo, chẳng còn nơi nào an toàn để tôi có thể nghỉ chân hay trú ngụ. Từ khi lên đảo đến nay, tôi đã lấy lại sức lực vốn có, nhưng thần kinh thì không được vững vàng như trước, hễ cứ gặp chuyện căng thẳng là lại cảm thấy kiệt quệ, muốn suy sụp. Tôi muốn đến chỗ bọn người thú, làm thân với chúng, chinh phục hết thảy bọn chúng, để chúng khỏi mưu hại mình, song lại không dám. Rốt cuộc, tôi quay trở về bãi biển, đi qua khu nhà cháy, tới nơi bãi cát san hô trải dài ra tận dải đá ngầm. Ở đây, tôi có thể ngồi suy nghĩ, lưng quay ra biển, mặt hướng về trong, coi chừng mọi động tĩnh.
Dưới ánh nắng ấm, tôi ngồi bó chân trong nỗi thê lương, cằm trên đầu gối, tính toán xem mình sẽ sống ra sao cho đến khi được giải cứu. A ha, mà ai ở đâu lại đến cứu mình cơ chứ? Tôi cố gắng nhìn nhận mọi thứ 1 cách bình tĩnh nhất có thể, nhưng làm sao bình tĩnh nổi trong hoàn cảnh như thế này?
Lại nhớ đến lời Montgomery "Sẽ thoái hóa, chắc chắn chúng sẽ thoái hóa". Moreau cũng từng nhắc đến điều này "Theo thời gian, thú tính của chúng sẽ trỗi dậy". Theo thời gian, thằng linh cẩu-heo sẽ còn nguy hiểm đến độ nào. Nếu tôi không khử được nó, chắc chắn nó sẽ giết tôi thôi. Thật không may là Tuyên Giới Luật Sư cũng đã chết. Đáng lo hơn nữa, bọn người thú nay đã biết các vị Tiên Chủ chẳng qua chỉ là người phàm, có sinh có tử. Lúc chúng bước ra khỏi rừng cây, lúc tôi chưa giở roi ra hù dọa, chúng đã suy nghĩ gì? Thằng linh cẩu-heo đã nói gì với chúng? Càng nghĩ, tôi càng tưởng tượng ra đủ điều, và càng chìm đắm trong vũng lầy của những nỗi sợ vô căn cứ.
Dòng suy nghĩ của tôi bị gián đoạn bởi tiếng kêu mấy con chim biển. Bọn nó đang bay về phía những vật gì đen đen bị sóng đánh dạt vào bờ. Tôi thừa biết những vật ấy là chi, nhưng không đủ can đảm để quẳng trả chúng xuống biển. Tôi đứng lên, rảo bước về hướng ngược lại, đi vòng qua góc phía đông của hòn đảo, để có thể đến hẻm núi nơi bọn người thú cư ngụ mà không phải băng qua rừng cây. Đi vào rừng dễ bị phục kích lắm!
Đi được nửa dặm, tôi chợt thấy 1 trong 3 tên người thú lúc nãy đang đi tới gần mình. Thần hồn nát thần tín, chưa cần biết ất giáp gì, tôi đã rút ngay súng ra. Nhìn cử chỉ nó có vẻ thân thiện, song tôi vẫn không thôi cảnh giác. Thấy dáng vẻ tôi, tên người thú cũng ngần ngừ.
"Cút đi!" Tôi hét.
Người thú này có vẻ khúm núm như 1 con chó. Y chang như chó bị chủ đuổi, nó lùi 1 chút rồi đứng lại, nhìn tôi khẩn cầu với đôi mắt nâu ươn ướt.
"Đi đi", tôi nhắc lại "Đừng tới gần tao."
"Con không tới gần chủ nhân được sao?" Nó nài.
"Không, đã bảo đi mà" tôi vụt roi cương quyết. Muốn làm dữ hơn, tôi ngậm roi vào mồm, cúi xuống lượm hòn đá. Người chó liền lủi mất.
Cuối cùng, tôi cũng thu đủ can đảm để đến chỗ bọn người thú. Ở đó, tôi nấp trong đám lau sậy ngăn cách giữa hẻm núi và bãi biển, quan sát cử chỉ cùng sắc diện chúng, cố suy đoán xem cái chết của Moreau và Montgomery, cùng sự sụp đổ của Nhà Khổ Hình, tác động đến chúng như thế nào. Tôi bỗng nhận ra cái ngu của mình. Giá như hồi sáng nay, tôi có đủ dũng khí đến tìm bọn chúng ngay, thay vì ngồi nghĩ ngợi lung tung, quyền trượng của Moreau có thể đã thuộc về tôi. Tôi có thể đã kế vị Moreau thành thần linh tối thượng cai quản lũ người khốn nạn này. Giờ thì cơ hội đã qua rồi, cùng lắm tôi chỉ giành nổi địa vị của 1 thủ lĩnh bình thường thôi.
Đến trưa, vài tên người thú ra ngoài bãi cát tắm nắng. Sợ mấy cũng chẳng bằng đói khát, tôi mò luôn ra khỏi bụi, cầm súng đến chỗ chúng. Một mẹ người sói đã trông thấy tôi, mấy đứa kia cũng thấy ngay. Chẳng đứa nào thèm đứng dậy chào. Tôi cũng quá mệt, không đòi chúng nó phải hành lễ nữa.
"Có đồ ăn không?", tôi bước đến gần, giọng hòa hoãn.
"Ở trong lều ấy" tên bò lai lợn lòi đáp 1 cách uể oải, mặt ngoảnh đi chỗ khác.
Tôi bước vào hẻm núi tối tăm, vắng vẻ. Trong 1 căn lều bỏ không, có ít trái cây đã lên mùi, gần thối. Chén xong bữa thì cần phải ngủ, thời gian qua đã khiến tôi quá căng thẳng, mỏi mệt rồi. Tôi dựng lên 1 hàng rào đơn sơ bằng cành khô nơi trước cửa lều, rồi nằm xuống quay mặt ra ngoài, tay để hờ lên báng súng. Đứa nào muốn vào ắt phải phá rào, gây ra tiếng động. Chừng đó, hy vọng tôi sẽ dậy kịp và phản ứng kịp thời.
( http://viptruyen.pro )
V
ậy là tôi đã hòa nhập vào cộng đồng người thú trên Đảo Bác Sỹ Moreau. Khi tôi tỉnh giấc thì trời đã tối. Cánh tay gẫy lại đau nhói, tôi ngồi dậy, nửa tỉnh nửa mơ không nhớ mình đang ở nơi nào. Có tiếng xì xào bên ngoài. Cửa lều trống toang hoác, cái hàng rào đã biến đi đâu mất, song súng lục còn nguyên trong tay tôi.
Hơi thở ai đó phả vào tôi. Có kẻ nào đang nằm bên cạnh thì phải. Tôi nín thở, cố nhìn xem xem nó là ai. Nó bắt đầu cử động 1 cách chậm chạp. Bỗng 1 cái gì mềm mềm, âm ấm và ẩm ướt lướt trên tay tôi. Cơ bắp trên người tôi bất giác co rúm. Tôi rụt tay lại, suýt thì kêu lên. Suýt nữa tôi đã bắn, nhưng may kịp trấn tĩnh.
"Đứa nào đó?" Tôi thì thào, chĩa súng vào đối tượng.
"Con đây mà, chủ nhân ơi."
"Con là đứa nào?"
“Chúng nó nói không còn ai là chủ nhân, nhưng con thì biết. Chính con khiêng mấy các xác đi mà, thưa Người Đi Trên Biển, xác những đứa bị ngài trừng phạt đó. Con là nô lệ của ngài, chủ nhân ơi.”
“Ra mày là đứa tao gặp ngoài bãi biển à?” Tôi hỏi
“Đúng rồi đó chủ nhân.”
Tên này thật sự trung thành, nếu không nó đã tấn công lúc tôi đang còn ngủ. “Tốt tốt”, tôi khen, chìa tay ra cho nó liếm lần nữa. Được tiếp sức bởi lòng trung của nó, hùng khí trong tôi lại bừng lên. “Mấy đứa kia đâu?” Tôi hỏi.
“Bọn ngu ngốc ấy? Chúng nó khùng rồi,” người chó thưa “Chúng đang trò chuyện với nhau bên ngoài kia kìa. Chúng bảo “Chủ Nhân đã chết, Nhị Tiên Chủ cũng chết, thằng gọi là Người Đi Trên Biển thì chẳng hơn gì tụi mình. Không còn Chủ Nhân, không còn Tiên Chủ, không còn Nhà Khổ Hình, không còn gì sất. Giới Luật hay lắm, nên tụi mình sẽ giữ Giới, nhưng mà Khổ Hình với Chủ Nhân, Tiên Chủ gì gì đó thì hết cả rồi”. Chúng nó không biết gì, nhưng con biết. Chủ nhân ạ, con biết.”
Tôi cảm động, lại vỗ đầu khen người chó “Giỏi lắm”.
“Giờ thì chủ nhân sẽ giết hết chúng nó, đúng không?” Nó thắc mắc.
“Từ từ, đến lúc thích hợp tao sẽ khử hết. Mày muốn tha đứa nào thì tao tha, bằng không tao khử tất.”
“Sao lại có con ở đây? Chủ nhân thích giết ai thì cứ việc giết thôi.” Giọng người chó ra vẻ hả hê.
“Cứ để bọn chúng coi thường tao, cứ để chúng thác loạn. Khi nào chúng phạm tội, tao sẽ giết.”
“Chủ nhân nói hay quá.” Người chó lại nịnh nọt.
“Nhưng hiện tại, có 1 đứa đã phạm tội rồi.” tôi quả quyết “Gặp nó là tao giết liền. Khi nào thấy tao hô “Nó đấy”, thì mày nhảy xổ vào nó cho tao. Bây giờ tao ra ngoài gặp mấy đứa kia đây.”
Người chó lon ton chạy trước, tôi bước theo sau, ra đến đúng chỗ ngày xưa từng đứng khi bị Moreau và đàn chó săn truy đuổi. Khi ấy ban ngày, còn giờ là đêm. Thay vào cảnh sườn núi xanh đượm ánh nắng vàng, nay chỉ thấy 1 bọn người thú xấu xí quây quần bên lửa đỏ. Hẻm núi tối đen như chứa đầy âm khí. Xa hơn nữa là rừng cây, cũng tối mò mò. Trăng đã lên đầu núi, bị phủ bóng bởi những làn khói tỏa lên từ các lỗ phun khí vốn đầy rẫy trên đảo.
“Đi cạnh tao”, tôi lên tiếng để dặn người chó, và cũng để tự trấn an chính mình. 2 đứa tôi bước đi trên con hẻm hẹp, làm như không để ý đến những con mắt đang ngó ra từ trong lều.
Mấy đứa bên ngọn lửa không chào tôi đã đành, chúng còn giả bộ ngó lơ. Tôi đưa mắt tìm linh cẩu-heo, nhưng không thấy đâu. Ở đây lúc này có khoảng 20 tên người thú đang sưởi ấm và chuyện gẫu.
“Ngài chết rồi, Ngài chết rồi! Chủ Nhân chết rồi!” Người khỉ nhí nhố ngay bên tai tôi “Không còn Nhà Khổ Hình nữa!”
“Ngài không chết,” Tôi lớn tiếng “Ngài đang ở trên kia quan sát chúng ta!”
Chúng giật mình. 20 cặp mắt cùng ngó tôi.
“Nhà Khổ Hình không còn, nhưng rồi sẽ có 1 Nhà Khổ Hình khác,” tôi tiếp “Bay không thấy Chủ Nhân, nhưng nãy giờ bay nói gì, Chủ Nhân đều nghe cả.”
“Đúng lắm, đúng lắm!” người chó phụ họa.
Chúng choáng váng. Thú vật có thể hung ác và xảo quyệt, nhưng chỉ có con…người mới biết nói láo mà thôi!
“Người Tay Bó Bột nói gì nghe lạ quá,” 1 đứa bình luận.
“Tao đã bảo rồi” Tôi nhắc “1 ngày kia, Chủ Nhân cùng Nhà Khổ Hình sẽ trở lại. Ai phá Giới khi ấy hối không kịp.”
Chúng lo lắng nhìn nhau. Làm ra vẻ thản nhiên, tôi ngồi nhịp nhịp cái rìu xuống đất. Bọn người thú ngó trân trân những vết cắt tôi tạo ra trên mặt cỏ.
Người dê chợt lên tiếng hỏi. Tôi vừa giải đáp xong, 1 con đốm phản đối ngay, dẫn tới cuộc tranh luận sinh động. Thời gian trôi qua, tôi cảm thấy yên tâm hơn. Ngày càng hăng say, tôi nói huyên thuyên không cần phải lấy hơi. Sau khoảng 1 giờ, tôi thuyết phục được vài đứa tin lời mình, hầu hết đám còn lại thì bán tín bán nghi, tuy còn ngờ nhưng không phản bác nữa. Linh cẩu-heo không thấy xuất hiện. Thỉnh thoảng 1 vài chuyển động vẫn khiến tôi giật mình, nhưng nói chung tôi đã tự tin hơn nhiều. Đến lúc trăng tà, thính giả của tôi bắt đầu ngáp lên ngáp xuống (khoe ra những cái răng quái dị dưới ánh lửa tàn). Chúng lần lượt rủ nhau vào động đi ngủ. Đứng 1 mình cũng rét, tôi liền vào theo. Bây giờ đã tin tưởng được phần nào, ở với chúng ắt hẳn an toàn hơn là đơn độc.
Trên Đảo Bác Sỹ Moreau, 1 quãng đời mới của tôi bắt đầu. Quãng này kéo dài tới 10 tháng, dài hơn nhiều thời gian ở chung cùng Moreau và Montgomery. Song le, từ đêm hôm đó cho đến lúc đào thoát, chủ yếu chỉ xảy ra những chuyện vặt vãnh không đâu. Thay vì viết hết ra cho tốn giấy, tôi chỉ tập trung vào chuyện chính mà thôi. Chà! Ký ức! Có hàng đống ký ức vẫn đọng trong trí tôi, những ký ức tôi sẵn sàng làm tất cả để lãng quên.
Nhớ lại khi ấy, kể cũng lạ khi tôi làm quen rất nhanh với lối sống của người thú, và mau chóng lấy lại sự tự tin. Có khi bọn chúng gây sự với tôi, có đứa dám cắn cả tôi nữa, song chẳng bao lâu, tôi đã làm chúng phải nể với những trò múa rìu cùng ném đá của mình. Tên người chó dòng Sanh Bẹc Na thì trung thành không cần nói. Trong cái xã hội này, càng ra oai càng được tôn kính, và chẳng phải khoe khoang, tôi được chúng tôn kính hết mực. 1-2 đứa óan tôi lắm, vì có lần tôi ra tay quá trớn làm tụi nó mang thẹo, nhưng có óan gì thì cũng chỉ dám thể hiện sau lưng tôi thôi.
Tôi luôn cảnh giác với linh cẩu-heo, còn nó thì luôn lẩn tránh. Người chó cũng ghét và sợ linh cẩu-heo ghê lắm, chính vì nỗi sợ đó mà bám lấy tôi như bóng với hình. Cũng như người báo đốm, linh cẩu-heo đã phá giới ăn thịt. Nó làm cái sào huyệt đâu đó ở trong rừng, 1 mình sống trong đấy. Có lần tôi thử lùa lũ người thú đi truy tìm nó, nhưng thất bại. Không có uy vũ của Moreau, tôi không thể điều khiển tất cả chúng cùng lúc. Lần này qua lần khác, tôi kiếm đến sào huyệt linh cẩu-heo, định ra tay bất kỳ xuất ý trừ khử kẻ thù, nhưng nó quá tinh ranh, lần nào cũng thoát đi trước. Khu rừng đã trở thành nơi nguy hiểm cho tôi và “đồng minh”, vì linh cẩu-heo có thể mai phục ở bất cứ đâu. Người chó không bao giờ dám rời tôi nửa bước.
Trong mấy tháng đầu tiên, lũ người thú vẫn còn nhiều nhân tính. Ngoài người chó, tôi còn làm thân được với 1-2 đứa khác nữa. Con lười hồng be bé rất khoái tôi, cứ theo chân tôi mãi. Người khỉ thì không thế. Cũng có 5 ngón tay, y tự hào cho rằng mình bình đẳng với tôi, nên suốt ngày huyên thuyên chọc tôi bằng những lời vô nghĩa. Phải công nhận 1 điều: Người khỉ cực giỏi trò sáng tạo từ ngữ mới. Y rất hay nghĩ ra những từ mới lạ, dù những từ ấy chẳng mang ý nghĩa gì. Công việc sáng tạo đó, y gọi là “Tư Duy Lớn”, để phân biệt với “Tư Duy Nhỏ”, tức những hoạt động, suy nghĩ thông thường hằng ngày. Hễ tôi nói câu gì y không hiểu, y như rằng y hoan hô nhiệt liệt, nài tôi nói lại cho nghe. Sau đó y học thuộc lòng, đi ra rả nói lại cho những đứa khác. Nhiều khi tôi nói 1 đằng, y lặp lại ra 1 nẻo, song có hề gì, vì y có hiểu mô tê chi đâu. Điều dễ hiểu y không thích, y chỉ thích thứ mình cóc hiểu tý nào. Chiều lòng y, tôi cũng hay sáng tạo ra các “Tư Duy Lớn” cho y, để y đem lòe thiên hạ. Người khỉ có lẽ là sinh vật ngu nhất tôi từng thấy. Trong y, có sự kết hợp hoàn hảo giữa cái dại của loài khỉ và cái ngu “độc quyền” của loài người.
Đó là chuyện trong thời gian đầu, lúc người thú còn nhớ Giới Luật, và cư xử còn theo khuôn phép. Duy 1 lần tôi thấy xác 1 con thỏ bị xé thành từng mảnh, nhưng chắc thủ phạm là linh cẩu-heo, kẻ đã phá Giới từ xưa. Đến khoảng tháng 5, tôi bắt đầu nhận thấy sự đổi khác trong dáng điệu và lời nói của lũ thần dân. Cử chỉ chúng trở nên kém linh hoạt, chúng lười nói hơn xưa. Người khỉ vẫn ba hoa, nhưng giọng nó trở nên giống khỉ hơn giống người. Vài con khác thậm chí còn quên luôn cách nói, tuy vẫn hiểu được lời tôi. (Chúng ta vẫn quen nói hằng ngày, có tưởng tượng được chăng cảnh tượng 1 ngày kia, khi lời nói phát ra không còn rõ ràng, chuẩn xác, không còn lưu loát, dễ nghe, mà trở thành những thanh âm vô nghĩa lý?) Ngay cả việc đi thẳng đối với chúng cũng trở nên khó khăn. Đứa này nối gót đứa kia bò trên 4 chân, không đứng lên được nữa, dù chúng vẫn biết bò là xấu hổ. Tay chúng vụng về hơn, cầm nắm đồ vật rất khó khăn. Khi uống, chúng mút. Khi ăn, chúng gặm xé. Hơn bao giờ hết, tôi nhớ lại lời của Moreau và Montgomery: “thú tính lòi ra”. Chúng đang thoái hóa, ngày càng thoái hóa nhanh.
Mấy con cái đi đầu trong việc cố tình vứt bỏ cái gọi là “thuần phong mỹ tục”. Bọn đực cũng theo ngay. Nhiều đứa công khai quần hôn với nhau, quên phứt đi lề lối “1 vợ 1 chồng”. Giới Luật rõ ràng đã không còn hiệu lực. Mà thôi, đây là vấn đề tế nhị, không nên nói thêm.
Người chó của tôi đã thoái hóa thành chó thông thường. Nò bò trên cả tứ chi, miệng không nói được, lông lá rậm đầy khắp thân thể. Từ người bạn đồng hành cùng tôi, nó trở nên 1 con chó theo chân chủ.
Cuộc sống trên đảo ban đầu đã chẳng dễ chịu gì, nay lại càng tệ hại. Chán ngán lũ người thú ngày càng trở nên vô tổ chức, tôi rời hẻm núi, về lại chỗ khu nhà cháy khi xưa, lượm lặt ít cành khô, dựng nên 1 cái lán tạm bợ. Người thú ắt hẳn vẫn còn chút ký ức về Nhà Khổ Hình, chắc không dám bén mảng tới chỗ này.
Kể tỉ mỉ chuyện thoái hóa của người thú thì dài dòng lắm. Chỉ biết rằng cứ mỗi ngày trôi qua, nhân tính trong chúng lại mất thêm 1 ít. Chúng bỏ hết cái gọi là áo quần, lông chúng mọc rậm bao phủ tứ chi. Trán chúng thu lại, mặt nhô ra trông gớm chết. Khiếp thay! Vậy mà tôi đã từng thân với chúng, coi chúng như người.
Quá trình thoái hóa diễn ra từ từ, nhưng không thể tránh khỏi. Tôi đã biết trước nên không bất ngờ, mà bản thân bọn chúng cũng không bị sốc gì hết. Lúc này, tôi vẫn có thể an toàn đi lại với chúng, có lẽ bởi chúng chưa thú hóa hoàn toàn. Tuy thế, ngày mai sẽ ra sao thì khó mà biết được. Chó Sanh Bẹc Na vẫn rất trung thành, đêm đêm ngủ chung cùng tôi, nhờ có nó mà tôi an tâm chợp mắt. Con lười hồng thì đã bỏ tôi, trở về với thiên nhiên hoang dã. Tôi và lũ thú chung sống hòa bình, nếu người không đụng đến thú, thú cũng để người yên.
Đương nhiên, đám quái trên đảo không thoái hóa thành y chang những con thú thông thường ta vẫn thấy nơi thảo cầm viên: gấu, sói, cọp, bò, heo hay khỉ. Trông chúng lạ lắm, do khi tạo chúng, Moreau hay lai giống này với giống kia. Ngoài những con lai trông rõ mồn một, các con khác thật ra cũng là lai cả. Gọi là người bò, người mèo, người gấu, nhưng thật ra không chỉ có bò, mèo, hay gấu mà thôi, mỗi con đều lai lai 1 ít. Tội nghiệp, thỉnh thoảng chúng nhớ đến chuyện ngày xưa. Có con mấp mấy môi mà không thành lời, con khác đưa chi trước lên như cánh tay, hay cố gắng đứng thẳng mà chẳng được.
Mà nói gì bọn chúng, đến tôi còn “thoái hóa” nữa thay. Áo quần tôi đã trở thành những mảnh giẻ vàng vàng, rách chỗ này, bươm chỗ nọ, để lộ ra làn da đen thui. Râu tóc tôi dài ra, lởm chởm, bện dính vào nhau. Đến tận bây giờ, người ta vẫn bảo rằng mắt tôi sáng hơn mắt thường, rằng tôi thính nhạy hơn người thường.
Trong thời gian đầu, tôi còn nuôi hy vọng được giải cứu. Mỗi ngày, tôi ngồi hàng giờ nơi bãi biển phía Nam, hy vọng và nguyện cầu có tàu cập bến. Tôi mong chiếc Ipecacuanha trở lại, nhưng nó không đến bao giờ. 5 lần tôi thấy cánh buồm phía đằng xa, 3 lần thấy khói, nhưng không tàu nào ghé vào cả. Lúc nào tôi cũng nuôi sẵn 1 đống lửa hiệu thật to, nhưng chắc người ta không để tâm, vì đảo này là đảo núi lửa, khói bốc lên là chuyện thường ngày.
Mãi đến tận tháng 9 hay tháng 10, tôi mới nghĩ đến chuyện đóng bè để tự đào thoát. Bấy giờ tay tôi đã lành, nên có thể lao động như bình thường. Khi vừa bắt tay vào việc, tôi vụng về kinh khủng. Dĩ nhiên thôi, vì cả đời đã bao giờ động tay vào nghề mộc đâu. Phải phí bao nhiêu thời gian, thử nghiệm đủ kiểu, mới biết cách đốn cây sao cho nhanh, cách buộc các cây gỗ lại với nhau như thế nào. Dây rợ không có, cũng chẳng có vật liệu gì dùng làm dây được. Cây leo trong rừng tuy nhiều nhưng quá mềm, mạnh tay 1 chút là đứt ngay. Tôi nghĩ mãi mà không sao ra cách làm chúng cứng lên. Còn bao nhiêu thứ dụng cụ cần phải có nữa. Suốt nửa tháng trời, tôi lần mò trong khu nhà cháy và chỗ bến thuyền, thu thập những cái đinh và mảnh kim loại còn sót lại. Thỉnh thoảng, vài tên người thú mò đến xem tôi làm việc, song khi tôi gọi vào giúp thì chúng chuồn ngay. Rồi đến mùa mưa, suốt ngày giông tố bập bùng, làm công việc trễ nãi vô cùng. Nhưng sau rốt, cái bè cũng hoàn tất.
Hỡi ôi! Đến khi đã xong việc, tôi mới nhận ra mình đóng cái bè ở địa điểm nằm cách biển đến...1 dặm. Đúng là tay mơ có khác. Đành phải nai lưng mà kéo bè ra biển. Kéo chưa đến nơi, nó đã rã lại ra từng mảnh. Giờ đây nghĩ lại, thấy đó là cái may, vì bè biếc như thế mà ra biển thì chỉ sớm xuống chầu Long Vương, Hà Bá. Nhưng lúc đó tôi buồn lắm, mất tinh thần dữ lắm, đến nỗi suốt mấy ngày liền không thiết làm gì, chỉ ủ rũ bên bờ biển nhìn đất nhìn trời, và nghĩ đến cái chết.
Nghĩ thì nghĩ vậy, chứ dù sao tôi vẫn ham sống lắm. 1 sự kiện xảy ra, khiến tôi chợt tỉnh ngộ, nhận ra mình đã lãng phí biết bao thời gian. Bọn người thú còn thoái hóa nhiều nữa, nên thêm 1 ngày ở đây là thêm những nỗi hiểm nguy.
Hôm ấy, tôi đang nằm khềnh trong bóng râm của khu nhà đổ nát thì chợt thấy gót chân hơi nhồn nhột. Ra là con lười bé. Nó đang hấp háy mắt. Nó không nói được từ lâu, chân tay cũng chẳng còn linh hoạt. Lông nó dày, và móng vuốt dài hơn. Nó kêu lên khe khẽ, đi 1 đoạn về phía rừng cây, rồi đứng lại ngó tôi.
Tôi ngơ ngác, rồi chợt hiểu: Nó muốn mình đi theo đây mà. Trời nóng quá, song tôi vẫn ráng lê chân, coi thử xem có chuyện gì. Khi vào đến bìa rừng, nó leo thoắt lên cây (Giống lười vốn giỏi đu dây leo hơn đi trên mặt đất). Đi thêm ít bước, tôi chạm trán 1 cảnh tượng kinh hoàng. Chú chó thân tín dòng Sanh Bẹc Na nằm chết tự lúc nào. Thằng linh cẩu-heo ở ngay cạnh bên, đang xé thịt chú ra nhồm nhào ngấu nghiến, ra bộ cực kỳ khoái trá. Đưa mắt nhìn lên, nhận ra tôi, nó gào lên đe dọa, môi rung lên vì giận dữ. Bị bắt quả tang phá Giới, nó chẳng sợ, chẳng xấu hổ, bởi nhân tính nơi nó nay đã chẳng còn gì. Tôi bước tới 1 bước, giương súng lên. Chuyện gì đến, phải đến. Rốt cuộc, tôi với nó đã mặt đối mặt.
Linh cẩu-heo không bỏ chạy. Nó thu mình lại chuẩn bị tấn công, lông xù ra, tai dựng ngược. Kìa, nó đã chồm lên, nhảy xổ vào tôi. Cùng lúc ấy, tôi nhắm giữa 2 mắt nó, nhả đạn. Phát đạn đi trúng mục tiêu, linh cẩu-heo chết ngay khi còn lơ lửng trên không. Xác nó rơi đúng vào tôi, đè tôi té lăn ra đất. Mặt tôi bị chân trước nó quật trúng.
May mà bắn cũng không tồi. Tôi đẩy cái xác dơ bẩn của linh cẩu-heo sang bên, đứng dậy rồi mà chân còn run, tim còn đập mạnh. Tôi đi làm 1 dàn hỏa, đoạn mồi lửa, thiêu thi thể của chú chó lẫn linh cẩu-heo. Nguy hiểm đã qua, hay mới chỉ bắt đầu? Ai biết được liệu những con kia có trở chứng giống như linh cẩu- heo? Không vội rời đảo thì sớm muộn sẽ chết không toàn thây.
Giờ đây, lũ người thú hầu hết đã rời hẻm núi. Đứa nào đứa nấy tự làm hang ổ sống riêng 1 nơi. Ai đến đảo lúc ban ngày sẽ không thấy chuyện gì khác thường, vì lúc ấy chúng đều ngủ cả. Đến đêm, chúng mới trở dậy, thi nhau gào hú đến rợn người. Đôi khi tôi muốn giết sạch chúng đi, nhưng quả là bất khả. Giết bằng gì? Dao ư? Đặt bẫy ư? Nhiều thú quá giết vậy sao xuể? Bắn thì dễ rồi, nhưng lấy đâu ra cho đủ đạn? Những đứa dữ tợn nhất đã chết, nhưng cũng còn đến 20 con thú ăn thịt. Sau cái chết của người bạn cuối cùng là chú chó Sanh Bẹc Na, tôi phải bắt chước bọn thú: Ngủ ban ngày, để đêm thức giữ mạng. Tôi gia cố cái lán, làm cái cửa ra vào cực kỳ hẹp. Con gì muốn lọt qua cửa đó ắt phải gây tiếng động lớn. Một điều may cho tôi: Bọn thú đã quên cách nhóm lửa. Không những thế, bây giờ hễ thấy lửa là chúng sợ.
Tôi bắt đầu đóng lại cái bè, và cũng như lần trước, gặp phải vô vàn khó khăn. Vốn tôi vụng về, mà hồi đi học, người ta chưa dạy nghề trong trường, nên không biết tý ty chi về mộc. May phước! Cái khó ló cái khôn! Ròng rã mãi, tôi cũng làm xong công việc. Lần này cái bè khá chắc chắn, chứ không dễ rã rời ra như trước. Chỉ còn 1 vấn đề: Đi trên biển cần mang theo nước ngọt, mà để đựng nước ngọt cần có chum. Trên đảo này, 1 cục đất sét cũng không, chứ nếu có, tôi sẽ thử làm anh thợ gốm, tự nặn chum để xài. Tôi lang thang khắp đảo, tìm xem có cái gì có thể dùng đựng nước hay không. Tìm mãi không ra, tôi giận điên người lên, lấy rìu chém bừa lên cây cho hả. Chém hoài cũng không nghĩ ra cách gì.
Rồi đến 1 ngày, 1 ngày thần tiên. 1 cánh buồm nho nhỏ xuất hiện từ phía Tây Nam. Tôi vội đốt lửa hiệu, rồi đứng đấy thấp thỏm đợi chờ, trối kệ ánh nắng chang chang. Không ăn không uống, tôi đứng đợi thuyền suốt cả ngày, cho đến khi đầu óc quay cuồng. Bọn thú thấy lạ, đến dòm ngó 1 hồi, chán thì bỏ đi. Đến tận đêm, thuyền hãy còn ngoài xa, tôi vẫn cứ đứng trơ trơ, không ngủ. Tôi trông thuyền, còn những con mắt đỏ trong rừng thì tò mò trông ra, xem tôi. Bình minh hôm sau, thuyền đã tới gần hơn. Tôi nhìn được rõ ràng: Nó là 1 thuyền nhỏ, cánh buồm dơ bẩn tệ. Trên thuyền có 2 người đang ngồi: 1 đằng mũi, 1 gần bánh lái. Ơ, mà thuyền gì lại chạy lạ thế nhỉ? Mũi nó không nhằm đúng hướng gió, nên hoài không cập vào bờ được.
Trời sáng dần lên. Tôi ra sức vẫy, nhưng 2 người trên thuyền vẫn ngồi im, đâu mặt vào nhau. Tôi chạy tới gần hơn, lại vẫy, lại hét: vẫn không ăn thua. Con thuyền cứ trôi không định hướng, song từ từ cũng dạt dần vào bờ. 1 con chim trắng từ thuyền bay lên, đảo vài vòng trên trời. 2 người ngồi trong bất động như không.
Thôi không hét nữa, tôi ngồi xuống đợi, hai tay chống cằm. Thuyền đã vào gần lắm rồi, có thể bơi ra được. Có điều, 1 nỗi sợ bí ẩn khiến tôi cứ ngồi yên. Đến chiều, khi thủy triều rút xuống, con thuyền mắc cạn ở bờ Tây, chỉ cách khu nhà đổ độ trăm thước. Đến thật gần, tôi phát hiện ra 2 người kia đã chết. Khi tôi kéo họ ra, 2 thi thể rơi ra từng mảnh. Vậy là chết từ lâu lắm rồi. 1 thi thể có mái tóc đỏ, giống như viên thuyền trưởng chiếc Ipecacuanha. Trên khoang, tôi tìm thấy chiếc mũ màu trắng dơ bẩn.
3 con thú từ đâu bỗng mò tới, hếch mũi lên tiến ra chỗ tôi. Cảm thấy tởm lợm, tôi đẩy thuyền ra mé nước, nhảy lên, giong buồm đi ngay. Chúng nhìn theo: 2 con sói mắt rực lửa, cánh mũi phập phồng, và 1 con con lai vừa bò vừa gấu. Nhe răng trắng nhởn, chúng bu lại chung quanh 2 cái xác người. Tôi quay mặt đi, không dám nhìn.
Đêm ấy tôi nằm trên thuyền, bập bềnh trên mặt nước giữa đảo và rặng đá ở ngoài xa. Trên thuyền có sẵn cái thùng. Sáng ra, tôi neo thuyền trong hốc kín của rặng đá, đề phòng lũ thú thấy, rồi lên bờ múc nước đổ đầy thùng. Hái lượm xong 1 đống trái cây, tôi mai phục, bắn được 2 con thỏ bằng 3 viên đạn cuối cùng còn trong súng.
Giữa trời khuya, trong làn gió Tây Nam nhè nhẹ, tôi giong buồm tiến ra đại dương. Gần 1 ngày trôi qua, Đảo Bác Sỹ Moreau ngày một nhỏ dần đi, những làn khói từ đảo bốc lên trông mỏng manh như sợi chỉ. Sóng biển nhấp nhô, đảo đã khuất bên ngoài tầm mắt. Nắng lên rồi nắng lại tàn. Vầng dương đã tan trong bầu không, nhường chỗ cho ngàn vì sao lấp lánh. Biển tĩnh, trời yên, 1 mình tôi đối diện màn đêm.
3 ngày trôi qua, tôi chỉ ăn uống qua loa. Cảm giác trong người thật lạ: Dường như tôi không hứng khởi gì lắm với việc trở về thế giới loài người. Áo quần tôi rách rưới, nhớp nhơ như giẻ lau, tóc tôi dài và rối như mớ bùi nhùi. Chẳng trách khi vớt tôi lên, người ta ngỡ tôi là thằng hóa dại.
Thật đấy, tôi chẳng mừng chuyện về với loài người. Chỉ đơn giản vui vì đã thoát khỏi tay bầy thú. Vào ngày thứ 3, tôi được cứu lên 1 chiếc tàu 2 buồm đang trên đường từ Apia tới San Francisco. Thuyền trưởng lẫn thủy thủ trên tàu đều tưởng tôi phát rồ vì cô độc quá lâu, không ai tin những gì tôi kể. Nói ra chẳng ai nghe, thì nói để làm chi? Từ đó trở đi, hễ có người hỏi chuyện gì xảy ra trong 1 năm ròng, từ lúc chiếc Lady Vain bị đắm đến khi tôi được cứu, tôi chỉ trả lời mình không nhớ gì.
Để khỏi bị cho là khùng, tôi luôn phải hết sức cẩn trọng. Những ký ức về Giới Luật, về 2 cái xác thủy thủ, về thi thể Moreau...mãi luôn ám ảnh tôi. Trở về thế giới xưa, thay vì tự tin hơn, tôi vẫn thấy bất an và sợ hãi y như khi còn trên đảo. Người ta không tin tôi. Có vẻ như ngày trước, tôi nhìn bọn người thú ra sao, thì bây giờ, họ nhìn tôi giống vậy. Hay là tôi đã tập nhiễm ít nhiều đặc tính hoang dã của người thú mà không tự biết? Ai đó nói sợ hãi là 1 căn bệnh. Cuộc sống của tôi trong những năm qua minh chứng rằng điều ấy đúng. Mặc cho bao nhiêu nước chảy dưới chân cầu, tôi không thể gạt bỏ được nỗi sợ ra ngoài tâm trí: Nỗi sợ của sư tử bị bắt vào chuồng, nửa hoang nửa thuần.
Trí óc tôi suy nghĩ những điều rất lạ. Ngày ngày đối diện cùng những con người thật 100%, tôi vẫn nghĩ họ là thú giả người, tưởng như chẳng mấy chốc họ sẽ bắt đầu thoái hóa, lòi ra đủ thú tính ghê sợ. Tôi có đem sự thật trên đảo kể cho 1 người nữa. Người này là 1 bác sỹ tâm thần tài giỏi, trước kia từng biết Moreau. Ông ấy xem ra tin tôi phần nào, và đã giúp tôi rất nhiều. Tuy thế, ngay cả ông cũng không giúp được tôi hoàn toàn vượt qua nỗi ám ảnh về hòn đảo người thú. Bình thường, những ký ức đáng sợ chìm vào lãng quên, chúng nằm trong góc sâu của não bộ, như 1 đám mây đen nho nhỏ không đáng kể gì. Nhưng có những ngày không tươi đẹp, đám mây ấy lan tỏa ra, che lấp đi toàn bộ bầu trời. Những ngày ấy, tôi đi đâu cũng thấy sợ hãi, nhìn bất cứ mặt người nào cũng thấy ghê. Mặt thì đủ loại: Mặt vui, mặt buồn, mặt ngay, mặt gian, mặt khôn, mặt ngốc, vấn đề là không mặt nào chứa đựng hồn người. Dường như sau mỗi khuôn mặt, có 1 con thú đang ẩn nấp, và chỉ chút nữa thôi, tấn thảm kịch trên đảo Moreau sẽ tái diễn với 1 quy mô rộng lớn hơn. Vẫn biết đó chỉ là tưởng tượng. Vẫn biết những quý ông quý bà trước mặt tôi đây là đều người chính cống. Vẫn biết trong họ chỉ có những ham muốn ước ao đầy chất người. Vẫn biết họ đã vượt được bản năng, không còn là nô lệ của bất kỳ Giới Luật kỳ khôi nào. Biết thế, nhưng tôi vẫn lảng tránh cái nhìn của họ, từ chối sự giúp đỡ từ họ, và chỉ muốn họ để tôi yên thân 1 mình. Chính vì vậy, tôi dọn về nhà mới ở gần khu đồi cỏ thanh u. Khung cảnh đồi cỏ dưới trời xanh thật thanh bình biết mấy. Khung cảnh ấy giúp tôi tĩnh tâm mỗi khi nỗi ám ảnh dâng trào.
Hồi còn ở London, tôi khổ sở biết bao, bởi không sao mà tránh được người. Khóa cửa ư? Giọng nói bên ngoài vẫn vọng vào trong được. Bước ra đường thì ảo giác đủ điều. Tôi thấy các bà tò mò bám theo tôi, thấy các ông ném cho tôi những cái nhìn ganh ghét, thấy bọn trẻ theo đuôi tôi chế giễu đủ trò. Thấy cả những cụ già lưng khòm, nghễnh ngãng ngồi chuyện gẫu với bản thân, những công nhân mặt bủng da beo, vừa đi vừa ho sù sụ như thú bị thương đang rỉ máu. Vào nhà nguyện, tưởng được cứu rỗi tâm hồn, thì kinh hoàng nhận ra linh mục đang ba hoa toàn “Tư Duy Lớn” chẳng khác gì người khỉ. Vô thư viện, gặp người ta đang chăm chăm đọc sách, lại nhầm ra thú dữ hau háu rình mồi. Nhưng sợ nhất là khuôn mặt của những người ngồi trên xe buýt hay tàu điện, trông lạnh tanh và vô hồn như cương thi. Sợ đến nỗi tôi không dám bước vào phương tiện giao thông công cộng nữa. A, nhưng nếu thiên hạ là thú cả thì ta là ai? Chắc cũng là thú thôi. 1 con thú loạn thần kinh, suốt ngày lang thang 1 mình như cừu lạc.
Cũng may, bây giờ tôi đã khá hơn trước. Tôi rút lui khỏi chốn thị thành xô bồ, khỏi những đám đông ồn ào nhức óc. Ngày qua ngày, tôi giành thời gian đọc sách thánh hiền. Ôi! Thánh hiền như người soi đèn, mà sách họ viết là đèn soi đời ta đó. Tôi ít gặp người lạ, thường chỉ loanh quanh với gia đình nhỏ của mình. Ngoài đọc sách, tôi cũng hay làm thí nghiệm hóa học, có khi nghiên cứu thiên văn vào những đêm trời quang. Không hiểu sao, nhưng khi nhìn lên những vì sao tỏa sáng trên bầu trời, tôi cảm thấy sự an toàn và thanh bình vô lượng. Người ta chỉ tìm được sự an ủi và hy vọng cho tâm hồn nơi những quy luật thường hằng và vô biên của tự nhiên, chứ nào phải nơi cuộc sống thường ngày vốn đa đoan, tủn mủn. Mà không hy vọng thì sống làm sao?
Câu chuyện của tôi kết thúc nơi đây, trong hy vọng và tịch tĩnh.
EDWARD PRENDICK.

Hết

.:Trang Chủ:.
Copyright © 2020 - Đọc Truyện - All rights reserved.

pacman, rainbows, and roller s