XtGem Forum catalog
Đọc truyện
P
eter càng đi càng cảm thấy con đường mòn dài vô tận. Đôi khi anh có cảm giác họ đã dong ruổi trên con đường này từ ngày sinh ra Trái Đất. Lúc này họ đi trên nền đất mềm hơn. Đôi chỗ có ít bùn, còn bước chân họ cảm thấy nặng hơn. Sau đó lại tiếp tục đi trên nền đá. Tia sáng mảnh mai của chiếc đèn Pin nguyên tử rọi đường cho họ đi. Còn bên cạnh, trên đầu và dưới chân hai người là khoảng tối âm u không gì xuyên qua được.
Lúc này Peter đã nghĩ rằng các tốt nhất để tranh thủ sự giúp đỡ không gì bằng tìm đến ORO, anh bạn thân mến của ON. Anh không tự cho phép mình ảo tưởng gì nữa. Đối với quyền lực âm thầm và đầy bí ẩn của Trung Tâm thì điều tốt hơn hết là nên ẩn mỉnh, ẩn nấp nếu có thể được. Ai mà biết được chuyện anh rơi xuống đây có phải là sự tình cờ hay không? Có phải một người nào đó đã cố tình lôi anh xuống đây? Có phải người ta vẫn quan sát và theo dõi anh từng giờ từng phút? Những lời kêu gọi trên điện đài của anh không nhận được lời đáp. Nhưng chúng có bị ghi lại ở đâu không?
Còn July yêu dấu của ta? Bây giờ nàng ở đâu? Riêng ý nghĩ rằng điều bất hạnh cũng có thể xảy đến với July đã làm cho anh gần điên đầu lên rồi. Có lẽ những người có trí nhớ biết ít nhiều điều này. Có lẽ ở thành phố này anh sẽ được biết thêm điều gì …
Peter và ON tiếp tục đi theo con đường mòn vắng vẻ. Đôi khi anh có cảm giác bị người theo dõi. Khi đó anh dùng đèn Pin nguyên tử soi khắp xung quanh. Nhưng khắp nơi không hề thấy một bóng người, chỉ có bóng tối, bóng tối nặng nề và dày đặc.
Hai người tiếp tục đi, đi mãi, không dám dừng chân, ai cũng im lặng. Bản thân ON cũng bị nhiều ý nghĩ lo lắng dầy vò. Không biết bản đồ ta vẽ có đúng không? Không rõ hai người đã đi đúng đường chưa? Liệu ta có tới đích không? Khi nào mới tới được? Và cuối cùng là cái gì sẽ chờ đợi ta?
Nghĩ có kỹ dẫu sau họ cũng thấy có niềm vui và tự tin. ON chứa chan hy vọng gặp lại vợ và ON con. Còn Peter thì cũng nuôi hy vọng mong manh hơn là biết đâu July chẳng đã có mặt ở Thành phố của những người có trí nhớ. Hoặc có thể ORO biết được tin tức về nàng. Còn nếu không thì sao? Cái gì sẽ xảy ra? Lúc đó anh phải đi tới đâu? Làm gì?
Chiếc mày sản xuất Oxy bỏ túi của Peter tiếp tục sinh ra lượng Oxy nuôi sống hai người. Từng lúc một, Peter lại nạp đầy bình chứa Oxy cho ON. Không nhớ là bao nhiêu lần. Thay cho các bữa cơm, họ nuốt những viên dinh dưỡng. Đột nhiên Peter lo lắng: Không biết những máy móc tinh vi này của mình còn sử dụng được đến bao giờ? Tuổi thọ của nó cũng có giới hạn chứ ! Nó đã được sản xuất cho những chuyến du lịc ngắn nên giống đồ chơi hơn là các thiết bị nghiêm túc.
Tới một lúc, ON đang đi phía trước, đột nhiên dừng lại nói:
- Bây giờ tôi nhớ rồi. Nhớ rất chính xác. Chúng ta sắp tới thành phố rồi anh ạ !
Lúc này anh lại bị kích động mạnh, không thua gì lần anh biết nội dung của cuốn vở bí mật.
- Theo bản đồ thì chúng ta đã tới đây, ở cuối con đường mòn và tôi có thể nhớ lại vị trí của hang động. Giây lát nữa chúng ta sẽ tới đó … Nhưng đoạn đường cuối cùng là đoạn đường khó đi nhất. Anh cần hết sức chú ý …
Trong các chuyện cổ tích người ta thường nói đến những ngọn núi dốc đứng, bằng pha lê với thành núi trơn tuột, mà chỉ có các loại rồng bay kỳ lân mới có thể bay qua được.
- Bây giờ tôi nhớ ra rồi … Thành phố của những người có trí nhớ, được bao quanh bởi một con hào tối. Và ven chỗ có hang động có rất nhiều bụi cây. Còn phía bên kia bắt đầu có các ngôi nhà. Nhưng tôi không biết sẽ vượt qua hào đó bằng cách nào. Có lẽ là nên dừng lại nghỉ một lát …
- Hào này ta nhất định vượt qua được. Trong những trang bị tôi đem theo có loại thang Mặt Trăng.
Họ dừng lại dưới chân một bức tường đá dốc đứng. Đó là phần thạch nguội hóa đá, hậu quả một vụ nổ khổng lồ dưới đất.
Peter mở túi dụng cụ lấy ra hai chiếc thang. Loại thang này như những cuộn chỉ lớn hay cuộn ống cứu hỏa cuốn thành vòng lớn. Khi sử dụng ta không phải làm gì khác hơn là trải cuộn đó ra, cho lăn trước mặt mình. Chiếc thang dây dính vào vách đá và tự nỏ ra thành từ đốt khi tiếp xúc với một vật rắn. Hai người có thể đặt mũi giầy lên các nấc, dựa đầu gối vào đó và lần lần leo lên. Mỗi cuộn thang dây dài tới vài dặm. Và mỗi nhà du hành vũ trụ mang theo trong túi hành lý của mình thàng tá loại thang Mặt Trăng như vậy. Khi người ta đụng phải bất kỳ một thiên thể nào hoặc rớt xuống một cái hào hay gặp một bức tường đá cao nào đều có thể vượt lên được. Hồi thế kỷ thứ 21 loại thang này đã được sử dụng lần đầu tiên trên Mặt Trăng nên đã được đặt tên như vậy.
Việc leo trèo tuy vậy không phải là quá dễ. Nhưng loại thang này tỏ ra rất chắc chắn. Họ leo từng đốt một, từng thước một và dần dà đã gần tới đỉnh. Chỉ lăn thêm vài vòng nữa là chiếc thang của Peter đã bám được vào một cành cây phía trên đỉnh đá. Chỉ một bước cuối, Peter đã nắm được một cành cây. Cành đó trơn như bằng chất dẻo. Thực ra đó không phải là một cây sống.
ON cũng đã tới một bụi cây. Họ tắt chiếc đèn Pin nguyên tử. Dừng lại vài phút xả hơi và nạp đầy bình chứa Oxy. Họ cố gắng phán đoán xem cái gì đang đợi họ ở đây. ON nhớ ra rằng đây là ngoại vi ngoài cùng của thành phố và nói chung không có người dân nào đi chơi ra tới đây. Cũng như ở Thành phố bêtông mà họ vừa rời khỏi, lối vào của mọi nhà đều quay vào phía trung tâm thành phố. Vì vậy mọi người dân không ai đi về phía này. Họ ra làm gì vì ở đây là chấm dứt của thế giới và bắt đầu cõi hư không. Đó là phần không sống của hành tinh. Dù cho có muốn đi chơi cũng không đủ lượng Oxy dự trữ…
Nói chung thế giới của hành tinh Oxy nơi nào cũng như nhau kể cả các nhà và thành phố của các nhà bác học. Ai cũng chẳng nghĩ tới việc đi đâu làm gì.
Đồng thời, chính ON cũng không biết xung quanh có thiết bị kiểm tra, hoặc cái gì đó chộp bắt họ. Điều có thể xảy ra nữa là họ vừa vượt qua một đoạn đường rất gian nan. Nhưng đột nhiên họ có thể rơi xuống một cái giếng và lập tức họ được đưa trở lại Thành phố bêtông, Thành phố của những sinh vật có đeo ống hô hấp.
Khi họ tự vạch một con đường qua đám cành và lá bằng chất dẻo thì một tiếng lao xao nổi lên. Toàn bọ đám bụi cay này đen kịt khi còn xa. Nhưng lúc đến gần thì chúng trở nên màu xanh sẫm. Lúc này Peter nhận thấy rằng ở Thành phố của những người có trí nhớ này có nhiều màu sắc như ON đã nói trước.
Họ đi xuyên như thế được vài trăm thước thì đám bụi cây chấm dứt đột ngột. Họ đã đến bên ria một cánh đồng rộng. Nền đất ở đây không phải bằng bêtông nhưng được phủ một lớp nệm dày bằng chất dẻo màu xanh lục. Phía bên kia bãi cỏ, họ thấy những ngôi nhà đầu tiên, xung quanh có vườn nhân tạo với những cành cây và hoa lá nhân tạo.
- Chúng ta tới rồi ! – ON reo lên – Chúng ta đã tìm thấy nó rồi. Tôi nhận ra được mọi thứ ở đây rồi.
Phía trên các ngôi nhà, bầu trời màu xám xanh.
Nhưng dẫu sao, nó cũng tươi sáng hơn là ở Thành phố bêtông. Ở đây các ngôi nhà không giống hệt nhau như ở dưới kia. Nó khác nhau về vật liệu xây dựng và cả màu sắc nữa. Trước các ngôi nhà, Peter thấy có những người đi lại một cách trầm lặng như những người ở dưới kia. Họ cũng đeo mặt nạ hô hấp nhưng kiểu nhẹ hơn và tiện nghi hơn nhiều.
Peter lấy máy phân tích không khí: Nitơ, Anhydric Sulfureux, khí Cacbonic và …
- Này ON xem này, không khí ở đây đã có được 5% Oxy.
ON gật đầu:
- Phải, chính nhờ điều này mà khi ở trong các phòng làm việc đóng kín, các ngôi nhà và các câu lạc bộ, chúng tôi có thể sinh hoạt mà không cần đến máy hô hấp. Tất nhiên là có những máy lọc và những bộ điều hòa không khí thích hợp.
Hai người đi qua bụi cỏ tới đường phố đầu tiên. Không ai để ý đến họ. Không ai quay lại khi họ đi qua và cũng chẳng ai nói gì với họ. Kể cả bộ quần áo lao động của ON với chiếc bình chứa Oxy căng phồng trên lưng cũng chẳng làm ai chú ý.
ON nắm lấy tay Peter:
- Tôi thật không biết nói làm sao để cám ơn. Nếu có một mình chắc chắn tôi không bao giờ tới đây được. Chúng ta hãy tới nhà ORO.
- Còn xa lắm không?
- Không xa lắm.
ON vội vàng rảo bước:
- Thật là kỳ lạ anh ạ. Nếu như mình nghĩ lại thật kỹ. Chúng tôi đã ở khá lâu ngay cạnh nhà ORO. Nhưng chúng tôi không hề biết rõ anh ta làm công việc gì. Tôi nhớ, mỗi người chúng tôi ở thành phố này đều có một nhiệm vụ riêng. Ngay tại chỗ làm việc mỗi người cũng có một phòng riêng. Mỗi người nhận được một nhiệm vụ từng phần và không được phép trao đổi hoặc thông báo công việc của mình cho nhau. Và bây giờ, khi nghĩ lại, tôi mới thấy được một điều thật hiếm có. Điều mà trước đây tôi chưa hề phát hiện ra: Hằng ngày, khi làm xong việc, chúng tôi bước lên tấm thảm lăn để đi về nhà hoặc đi đến câu lạc bộ nhưng không khi nào gặp gỡ những người có chùng nghề. Nhà ở của chúng tôi cũng được bố trí sao cho cạnh nhà một người thầy thuốc là nhà một người hóa học, cạnh đó có lẽ là một người thiết kế truyền hình hoặc một nhà vật lý. Như vậy, nếu hàng xóm láng giềng có gặp gỡ ngồi lại với nhau thì không tài nào nói chuyện về công việc được. Đồng thời chúng tôi cũng không hiểu biết gì nghề nghiệp của người khác. Và lúc đầu, điều này cũng không làm chúng tôi quan tâm. Tôi đã từng kể cho anh là chúng tôi cũng đánh bài hoặc nghe nhạc. ORO91 là một nhà phẫu thuật rất giỏi. Anh sống ngay kế bên nhà tôi. Nói cho đúng thì chính anh ấy là người có nhiều cố gắng để kết chặt tình bạn với chúng tôi. Anh ấy đã kể về mình cho tôi nghe và tâm sự với tôi rằng anh có nhiều ý nghĩ riêng tư. Trong những người mà tôi gặp từ trước đến nay thì ORO là con người tuyệt diệu nhất. Chính anh ấy đã giải thích cho chúng tôi biết về sự biến đổi đặc biệt trong cơ thể vợ tôi và đã đỡ cho ON con ra đời trong một cái động.
Trong khi họ hoàn toàn tỉnh táo và căng thẳng đi dọc theo con đường, họ bàn bạc với nhau về những điều ORO có thể biết, những điều có thể nói và khuyên nhủ họ, thì Peter không thể không nhận ra rằng, mọi thứ ở dây đều khác hẳn ở Thành phố bêtông và sự khác biệt đập ngay vào mắt. Ở đây, các ngôi nhà đều có cửa sổ tuy bị đóng kín cả. Không biết những cửa sổ này có chấn song hay không? Hay là người ta chỉ có thể nhìn qua mà không mở được. Ở đây anh có thể dễ dàng phân biệt các nhà ở với các ngôi nhà khác. Những nhà ở được xây dọc theo các quảng trường với những bãi cỏ nhân tạo. Trên các bãi cỏ nhân tạo rực rỡ những bông hoa nhân tạo màu đỏ, vàng và xanh. Những ngôi nhà lớn hơn là cửa hàng tổng hợp với những tủ kính chưng bày hàng rất đồ sộ. Trong đó có khá nhiều mặt hàng: quần áo nhiều màu, đồ gỗ, đồ dùng nội trợ, dụng cụ gia đình, kể cả văn phòng phẩm và đặc biệt là nhiều trò chơi xã hội. Trong đó có một bàn đánh bạc kiểu quay số, bộ bài cào có ba chục lá. Ở các Thành phố của những người mang vòi khắp nơi người ta ăn uống trong những nhà ăn màu xám giống hệt nhau. Ở đây cũng có những nhà ăn nhưng được trang trí bằng những tấm kính thật lớn. Tôi thấy mọi người ngồi ở các bàn nhiều màu ăn uống mà không phải đeo vòi hô hấp. Lại còn có cả những của hàng bán thực phẩm. Phần nhiều họ trưng bày đồ ngọt và khá nhiều thức uống.
- Chúng ta đến rồi ! – ON vui vẻ kêu lên.
Anh ta vừa dừng lại trước một ngôi nhà quét vôi xanh khả ái. Khi anh bấm chuông, một cánh cửa mở ra. Hai người bước vào. Cánh cửa đóng lại sau lưng họ. Phía trong một cánh cửa khác mở ra. Qua những ngăn như thế, hai người vào hẳn trong nhà. Vách ngăn này đương nhiên là cần thiết để khí Oxy trong nội thất khỏi thoát ra ngoài.
Sau khi qua năm sáu khoang như thế, họ vào tới một phòng khá rộng. Ở đây có một cầu thang đi lên các phòng trên lầu.
ON dùng lại ở giữa sảnh và lên tiếng gọi:
- ORO, cậu có nhà không đấy?
- Có, bạn chờ tôi một lát – Lời đáp vọng ra từ trên lầu.
Phía trên cầu thang hiện ra một người cao lớn có bộ mặt thông minh. Peter đã hơi quen cách nhận xét bộ mặt của người dân hành tinh này. Nên anh thấy đó là một người đàn ông chừng 34, 35 tuổi, chạc tuổi với ON.
Người đàn ông đứng dừng lại trên cầu thang, ngỡ ngàng nhìn hai người mới đến.
- ORO, bạn thân mến ! Cậu không nhận ra mìnhh à? Mình là ON, ON 711314, bạn thân nhất của cậu đây mà.
Lời đáp:
- Thưa, xin lỗi, tôi không có hân hạnh được quen biết ông – Anh nhìn thẳng vào ON với cái nhìn trống rỗng – Tôi chắc chắc chưa bao biờ gặp ông cả.
- Tôi xin cậu … cậu đừng làm cho tôi mất trí. Cậu có thể nói cho mình biết, vợ mình và thằng ON con hiện nay ra sao và mình tìm họ ở đâu bây giờ?
- Xin lỗi, tôi nghe rõ lời ông nhưng không hiểu là ông định nói gì. Tôi trông thấy ông lần này là lần đầu tiên.
- Thế này thì quá tệ - ON gào lên và bắt đầu nức nở.
P
Có những giây phút làm cho ON tự nghi ngờ chính mình. Có lẽ ta đã nhầm lẫn? Hay trí nhớ của ta đã trượt sang con đường lãng quên? Có thể ta đã nhận lầm một người xa lạ là ORO? Hay là các giác quan của ta lừa dối ta? Nhưng coi lại trên tấm bản đồ mà anh đã tốn bao nhiêu công sức mới vẽ được khi còn ở Thành phố bêtông, anh đã vẽ ngôi nhà ORO đúng ở vị trí này. Hơn nữa, anh đã nhận ra ngôi nhà này. Và anh đã nhận rõ đúng là ORO theo vóc người, theo khuôn mặt và theo giọng nói. Và người đó cũng tự nhận tên là ORO …
Vậy cái gì đã xảy ra với ORO? Có phải anh đã bị người ta can thiệp vào bộ não hoặc ru ngủ hay xóa mất trí nhớ? Hay là ORO sợ một cái gì đó?
Hay cậu ta cho rằng mình là hồn mà hiện hình. Từ kinh nghiệm của mình, ON biết rằng: Một khi một đồng nghiệp hoặc một người bạn đã bị loại ra theo đợt kiểm tra thì sau đó không có ai hỏi tới điều đó nữa. Nếu trước đây một người trong số này xuất hiện lại sau một hai năm thì chẳng phải là chính ON cũng trả lời: “Thưa ông, tôi mới trông thấy ông lần đầu …?”
Suốt dọc đường ON đã ôm ấp hy vọng là họ có thể tạm ẩn náu trong nhà ORO và nhờ anh ta giúp đỡ. Còn như bây giờ, lang thang giữa thành phố không có tấm thẻ đục lỗ họ không thể ở đâu được và cũng không thể làm gì được. Trên đường phố, họ gặp những người qua lại thật may mắn. Những người này cũng hoàn toàn bình thản đi qua trước mặt họ như những người ở Thành phố bêtông. Tuy nhiên từ lúc ở nhà ORO trở ra, Peter và ON nơm nớp lo sợ: Ở bất kỳ chỗ nào và bất kỳ lúc nào, nếu họ gặp kiểm tra đột xuất là lập tức sẽ bị bắt. Các lối đi bí mật, các khoang nhốt người hoặc các giếng sâu có thể mở ra dưới chân họ bất kỳ lúc nào …
Hai người quyết định phải rời khỏi thành phố theo con đường ngắn nhất và sẽ qua tạm đêm trong đám bụi cây nhân tạo để nghỉ ngơi đến sáng cho lại sức mà tiến hành những việc cần thiết.
Ở đây, tại Thành phố trí nhớ này, Peter đã có thể nhận thấy được sự thay đổi giữa ngày và đêm. Tuy chưa nhìn thấy được bầu trời xanh và Mặt Trời. Tuy nhiệt độ và cường độ sáng đều thay đổi rất rõ ràng. ON giải thích:
- Theo chỗ tôi được biết thì đây không phải là ánh sáng nhân tạo. Ít nhất tôi cũng hiểu được một vài nét.
Suốt trong thời gian ở dưới kia, tôi đã cố gắng tập trung để khỏi quên một tên và nhà của ORO. Bây giờ tôi không còn biết nhờ cậy ai trong số bạn cũ của tôi nữa. Kể ra thì có nhiều bạn đấy. Chúng tôi cũng đã tranh luận, cùng ngồi uống rượu với nhau … Nhưng giữa chúng tôi không hề có quan hệ nội tâm thì bây giờ làm sao tới nhờ vả họ được. Khi một người nào đó lại thay thế hoặc có một người nào mới xuất hiện sẽ không có ai đặt vấn đề gì hết.
Lúc này trời đã về đêm, họ mệt mỏi và cố gắng lắm mới tự thu xếp được một chỗ nghỉ trong đám bụi cây nhân tạo. Bầu trời tối om. Qua các cành nhánh của bụi cây, đôi lúc người ta có thể trông thấy ánh sáng ở các cửa hàng và quán ăn được tăng cường.
Hai người im lặng nằm hẳn xuống nhưng cũng không ngủ được. ON nhắm mắt lại rồi lại mở mắt ra. Anh cố nhớ lại mọi việc.
Ánh sáng thành phố từ phía kia tới thì lối vào hang động nhất định ở phía này. Lúc này trong bộ não đã nhiều lần bị can thiệp và tra khảo của anh hình thành những sóng của sự giận dữ và sự trả thù.
Tại sao mình không thể nhớ lại được rõ người một cách chính xác? Người ta đã làm gì mỗi người ở đây?
Bây giờ anh ta nằm, mắt mở trừng trừng và quan sát ánh sáng thành phố. Ánh đèn rực rỡ làm anh khắc khoải nhớ đến đôi mắt như sáng sủa và tò mò của đứa con trai. Điều này làm anh thư dãn và có thêm sức lực.
- Bây giờ chúng ta dậy đi Peter. Tôi có thể tìm được hang động.
- Ta đi đi ON. Nhưng anh nhớ rằng xung quanh đây toàn những vách đứng bằng phún thạch và núi đá.
- Hôm nay chúng ta sẽ thử số phận lần nữa.
Bây giờ họ vượt ra phía ngoài đám bụi cây. Bắt đầu theo bờ đá đi vòng bên ngoài thành phố. Họ vẫn sử dụng hai cuộn thang Mặt Trăng lăn trước mặt để bước chân thật chắc chắn khỏi trượt ngã. Peter nghĩ:
- Thật giống như cuộn chỉ của Arianne. Anh lại nhớ Trái Đất, nơi quê hương đẹp đẽ và thân thương của anh. Với những vùng đất mến khách, những con người hạnh phúc, những chuyện thần thoại và với đầy đủ vẻ đẹp của nó.
19. MÓN QUÀ CỦA ON CON
Trời sáng rồi lại tối trở lại. ON và Peter đi dọc theo đỉnh núi. Peter chợt có ý nghĩ dùng tín hiệu sáng để liên lạc với những người trong hang động.
Anh dùng chiếc đèn Pin nguyên tử vẽ những vòng trong không khí. Anh tiếp tục lặp đi lặp lại tín hiệu nhưng không thấy trả lời: Một sự yên tĩnh câm lặng và u uất tràn khắp nơi.
- Đến đây là gần tới nơi rồi đó – ON nói khẽ.
- Sao họ không đáp lai? Hay là họ sợ chúng ta?
- Sợ tôi à? Tại sao họ lại phải sợ tôi kia chứ?
- Họ làm sao biết được đó là cậu? – Peter hỏi – Nhiều lắm là họ chỉ thấy được tín hiệu sáng chứ khôgn thấy được chúng ta. Ta hãy chờ …
Họ dừng lại và bám chặt vào núi đá. Peter chiếu sáng ON, chùm sáng của chiếc đèn nguyên tử rọi lên làm tóc nâu, thân hình mảnh dẻ của ON. Họ cứ đứng như vậy một vài phút. Sau đó Peter tắt và bật đèn lên mấy lần nữa. Anh muốn mọi người trong hang động nom rõ ON. Quả nhiên sau vài phút có tiếng phụ nữ vang trong bóng tối:
- ON … O … O … ON … Hãy chờ em … Hãy ở nguyên đó và chờ em.
Sau đó, từ phía xa một điểm sáng nhỏ chao đi chao lại ngày càng tới gần. Rồi một thiếu phụ mảnh mai xinh xắn xuất hiện trước mắt họ. Peter không biết chính xác quần áo trên hành tinh Oxy này cắt theo kiểu nào và bằng thứ vải gì. Nhưng qua trang phục của thiếu phụ, anh nhận ra rằng quần áo này do cô ta tự cắt may lấy với bàn tay không nghề lắm. Tuy vậy nó vẫn toát ra nét duyên dáng và hấp dẫn. Cô ta chạy thẳng tới ON và ôm chặt lấy. Hầu như cô không để ý tới Peter.
- Còn ON con đâu? – ON hỏi sau khi âu yếm vợ.
- Bây giờ nó lớn thế này rồi – Cô ta ra hiệu – Mỗi ngày con nó đều cầu nguyện cho ba trở về để nó tặng món quà của nó … Bây giờ em đưa anh món quà này …
Ánh Dương, tên người thiếu phụ, đưa cho ON một mẩu gỗ mục có phát lân quang.
- Nó phát sáng đấy anh ạ - Cô nói.
Peter vội vàng xin phép được tới gần coi mảnh gỗ tận mắt. Với các dụng cụ khoa học, anh xác định được rằng nó thực sự là một mảnh vỏ cây hữu cơ và sự phát lân quang của nó là kết quả của quá trình phân hủy.
Peter dùng đèn pin rọi đường, Ánh Dương dẫn hai người đi ngược theo đường cô ta đã đến. Con đường mà với những bước chân khéo léo, tránh cách mảnh đá nhọn và đá lăn chị đã leo thật nhanh lên gặp ON. Lúc này họ phải bám chặt vách núi và đôi chỗ phải xử dụng đến chiếc thang dây Mặt Trăng. Nếu Ánh Dương không dừng lại chỉ thì chắc chắn họ không phát hiện ra lối vào hang động.
- Đây là người bạn tốt … Người tới là một người bạn tốt – Ánh Dương kêu lên – Tôi biết anh ta … ON con lại đây nào! Chúa đã nghe thấy lời cầu nguyện của con. Con hãy mang tặng phẩm lại cho ba cọn.
Một em trai kháu khỉnh chạy từ hang ra. Chân mang chiếc dép làm bằng những mảnh chất dẻo phế thải nào đó và mặc một kiểu xà rông. Em không đeo dụng cụ hô hấp. Lúc này Peter và ON mới phát hiện ra rằng cả thiếu phụ cũng đã bỏ mặt nạ hô hấp.
- Ở đây chúng ta có không khí, chúng ta có Oxy – Ánh Dương sung sướng kêu lên – Các anh bỏ mặt nạ ra.
Đến lượt Peter và ON tháo máy hô hấp. Không khí trong hang thật dễ chịu, thơm mát rất dễ thở.
Ánh sáng Mặt Trời của các anh – ON gọi với niềm hạnh phúc tràn đầy – ON con, con trai của ba …
Gia đình mới đoàn tụ lại, ôm ấp và hôn nhau hồi lâu. Lúc này cặp mắt của Peter đã quen dần với độ sáng mờ mờ trong hang. Anh thấy trong động lớn trung tâm có mở ra nhiều vòm hang nhỏ hơn và nhiều nhánh kiểu như lối đi. Đó là những sinh vật hình người, phần lớn là phụ nữ và trẻ em. Họ không thể ra khỏi các hang nhỏ, chỉ cúi người ra ngoài để nhìn rồi lại thụt đầu vào duy vẫn còn tiếp tục quan sát. ON nhỏ khuôn mặt sáng ngời hạnh phúc, mang tới một chiếc bình giống như một chiếc đĩa sâu, không rõ bằng một mảnh chất dẻo hay một hòn đá rỗng. Thiếu phụ giải thích:
- Cái này hai mẹ con đã trồng cho ba nó đấy.
ON nhận lấy chiếc bình ngắm nghía mãi mà không hiểu. Anh đưa lại cho con trai hỏi:
- Cái gì đây?
- Nó sống ba ạ … Nó nẩy mầm, sống và lớn lên. Mẹ và con đã trồng nó cho ba đấy! Mẹ và con biết rằng thế nào ba cũng trở lại mà.
Peter tò mò quan sát chiếc bình. Anh thấy trong có chứa đất, đất thịt thật sự, từ lớp đất mọc lên một thân cây nhỏ với những chiếc lá mảnh và nhỏ.
- Đây là bạn tôi. Peter Mac Gulliver. Anh từ một hành tinh xa xôi của bầu trời tới đây. Chúng ta hãy nồng nhiệt đoná tiếp – ON nói.
- Mời hai anh theo em – Thiếu phụ nói và dắt ON nhỏ đi trước.
ON đặt một tay lên vai vợ còn một tay khoác vai con đi sâu vào mê cung hang hốc. Peter Mac Gulliver vừa cảm động vừa tò mò lẳng lặng đi theo họ.
P
eter không thể xác định được cái thế giới trong lòng đất này lớn bao nhiêu và có bao nhiêu người sống trong đó. Trong những giò đoán đầu tiên. ON vui mừng và xúc động đến mức gần như quên bẵng hẳn anh. Peter không muốn rời khỏi bạn mình. Nhưng anh tranh thủ lúc này để thử cách quan sát các hang hốc. Ít nhất là ngó xem phần hang mà vợ con ON đang ở.
Hệ thống hang có một lối đi chính rộng rãi, có lúc thắt nhỏ lại, có lúc phình rộng ra thành những hang lớn có vòm đá rất cao. Bên thành các hang có nhiều chỗ ẩm ướt. Peter ngạc nhiên thấy ở bên thành một cái hang có một thác nước nhỏ tuôn ra rồi lại biến đi trong một cái hang khác. Trong cái mê cung bằng đá này có những phòng nhỏ, lớn, nhiều nhánh mở ra về khắp các phía. Ở một vài nhánh người ta phải leo lên cao. Trong một vài hang, có những chỗ nằm trải cát hoặc đá sỏi, có lớp chất dẻo trải ở trên. Trong một vài hang khác, anh thấy có cả cỏ tươi. Từ khi đặt chân lên hành tinh xa lạ này, đây là lần đầu tiên Peter gặp những thực vật dạng sống … Những người ở trong các hang hầu hết là phụ nữ và trẻ em. Sau khi trải qua cái im lặng buồn tẻ và những động tác chậm chạp của người dân ở các Thành phố bêtông thì Peter thấy ở đây tất cả đều sống động. Họ nói nhiều và hát cũng nhiều nữa.
Peter tiếp tục đi theo lối đi chính và đột nhiên như lọt vào một khu rừng rậm. Thực ra ở đây không có cây to nhưng có nhiều cây nhỏ, có cả bụi rậm và những loại dây leo thực sự. Đó là một loại bụi rậm tự nhiên, không có vết tích của sự trồng trọt. Tất cả điều đó đối với Peter thật khó hiểu. Nhất là ánh sáng ở đây chiều từ trên xuống. Kiểu chiếu sáng này Peter không giải thích được. Lúc này anh không hiểu được tình hình toàn cục. Khi còn ở Trái Đất anh chỉ thấy được cảnh như thế ở một vài nơi như ở gần Nable, tại Capi và trên một hòn đảo Malta không xa Lavletta trong những cái gọi là hang xanh. Ở dưới sâu của những hang tối lại có nước sáng rực màu cẩm thạch. Vậy thì ánh sáng ở đâu tới? Và cây cối này tự đâu mà có? Những sinh vật như người này từ đâu tới? Họ sống như thế nào? Sống bằng cái gì? Ai nuôi họ? Và số phận nào đang chờ đợi họ?
Trong các buồng nhỏ, không chỗ nào thấy có lửa. Điều này chắc không thực hiện được vì ngọnlửa tất sẽ tiêu hao mất nhiều Oxy.
Peter hoàn toàn ngỡ ngàng đứng giữa đám cỏ cây. Anh cảm thấy như mình vừa lạc tới một nhà kính trồng cây loại đặc biệt. Đột nhiên, anh có cảm giác là anh đang chuyển động trong cái hang lạ kỳ này như trong mộng. Phải, có lẽ anh chỉ mơ thấy điều này mà thôi. Có lẽ anh đang ở nhà trên Trái Đất hoặc đang ngủ trong buồng lái của con tàu vũ trụ Nhân loại và đang mơ thấy về những điều không thể xảy ra, về những sinh vật mang vòi, về những hang động, về biển cả kỳ lạ màu đen như than, về những sinh vật hình người với bộ não bị khống chế. Anh cho là mình đang nằm mơ và sẽ có một lúc nào tỉnh dậy … Nhất định có lúc anh sẽ tỉnh dậy.
Có những tiếng kêu réo kéo anh ra khỏi tình trạng mơ mộng này: Một đám trẻ em đang quây lấy anh và hỏi anh dồn dập không biết bao nhiêu câu hỏi. Peter đã học được của ON khá nhiều ngôn ngữ của hành tinh Oxy tới mức lần này không cần máy phiên dịch tự động nữa. Những trẻ em ở đây nói vội vàng với giọng the thé và có nhiều âm sắc kích thích hơn những sinh vật trong các Thành phố bêtông:
- Anh kể cho chúng em cái gì đi ! Anh từ đâu tới? Anh có biết viết không? Tại sao anh mặc quần áo lạ thế?
Peter nhìn từng đứa trẻ một, em no qua em kia. Tất cả bọn chúng đều xanh xao gầy còm, quần áo rách rưới. Nhưng chúng có những đôi mắt sáng, tinh nhanh sinh động. Anh đang định trả lời câu hỏi thì ON tới giúp:
- Các cháu ơi ! Vị khách của chúng ta còn mệt. Chú ấy từ nơi rất xa tới đây và có lúc nào đó sẽ kể cho các cháu nhiều chuyện hay. Nhưng bây giờ hãy để cho chú ấy nghỉ đã. Chúng ta còn nhiều thời gian mà.
- Thế còn chú là ai? – Đám trẻ hỏi ON.
- ON con là con trai của chú. Các cháu hiểu chứ?
- Ê ! Nó không thể là con trai chú được. Chú đâu có phải là phụ nữ mà sinh được nó – Một chú bé còn ít tuổi reo lên và cả đám trẻ cười rộ - Chú không nên nói ON là con chú nữa !
- Sau này chú sẽ giảng cho các cháu rõ. Còn bây giờ bọn chú phải nghỉ ngơi cái đã.
- Chúc hai chú ngủ ngon và mơ đẹp – Bọn trẻ reo lên và mở đường cho họ đi.
Lúc này ON mới nắm chặt lấy tay Peter.
- Anh thứ lỗi cho tôi vì đã để anh một mình lâu quá … Nhưng sự vui mừng cảm động chút xíu nữa đã làm cho tôi mất trí. Bây giờ tôi đưa anh trở về chỗ vợ tôi. Chúng tôi chờ anh ăn và sau đó có chỗ nghỉ cho anh.
- Tôi không thấy mệt đâu, bạn ON thân mến ạ. Lúc này tính tò mò đang làm tôi ngứa ngáy. Tôi muốn tìm hiểu …
- Bây giờ chúng ta phải nghỉ cái đã. Bởi vì đến tối chúng ta phải lên đường. ORO đã nhắn tim chúng ta. Anh ấy đang đợi chúng ta.
- Anh ấy đã nhắn tìm chúng ta à? – Peter vừa hỏi vừa nghi hoặc nhìn ON – Cậu có hiểu được điều này không?
- Tôi không biết phải đánh giá tình hình này thế nào.
21. ORO 91
Sự tình thế này. Thực ra ORO đã lập tức nhận ngay ra ON.
Anh đã nhận ra ON khi mới nghe tiếng gọi và khi còn dừng lại ở trên thềm thang gác. Ý nghĩ đầu tiên khi thấy ON đứng dưới phòng khách bên một người lạ mặt là chạy thẳng tới ôm lấy cổ bạn. Nhưng trong giây tiếp theo anh có một suy nghĩ trái ngược: Điều này không thể xảy ra được. Đây chỉ có thể là một sự khiêu khích … Điều này không thể xảy ra được … ON làm thế nào mà trở về được nhỉ? Vì từ “đó” chưa hề có một người nào quay trở lại được … Vậy thì người này nhất định không thể là ON. Anh ta chỉ mang ngoại hình của ON và bắt chước tiếng nói của ON … Và còn người lạ đi cùng? Không, mình không được phép tự bộc lộ.
Sau khi khước từ với giọng nói lạnh lùng, ORO nhìn thấy trên khuôn mặt ON thể hiện sự ngỡ ngàng và thất vọng thì anh lại chần chừ giây lát. Nhưng anh quyết định không ra mặt và anh cứ đúng âm thầm không nhìn ai cả và chờ cho tới khi ON thổn thức vì thất vọng cùng với người lạ mặt rời khỏi nhà anh.
Tuy vậy, suốt ngày hôm đó anh ở trong trạng thái hốt hoảng và kích động. Sự yên tĩnh và tính kỷ luật của anh đã hoàn toàn biến mất. May thay, hôm đó lại trúng vào ngày nghỉ của anh, ORO cảm thấy rằng nếu cứ để thế này khi tới chỗ làm việc, thì thần kinh của anh sẽ bị rệu rã không làm được gì. Anh để sẵn lọ thuốc ngủ trên bàn, bên cạnh mình để bất kỳ lúc nào cũng có thể uống được. Anh có cảm giác chưa khi nào bị nguy hiểm to lớn như vậy.
ORO trạc tuổi ON. Nguồn gốc và thời niên thiếu, anh cũng không còn nhớ gì. Anh chỉ có những kỷ niệm rất mờ nhạt và nhòe nhoẹt bên Thành phố bêtông với một chiếc mặt nạ nhỏ. Đôi khi anh còn nhớ đến một dây kệ dài vô tận chất đầy gạch nhưng anh đã đánh rơi xuống. Lúc ấy một tiếng chuông lanh lảnh vang lên một miệng giếng mở ra và nuốt chửng những hòn gạch vừa rơi xuống. Còn lưu niệm sau đó của anh thì đã là Ngày Hội Mùa Xuân. Trong đám rước có nhiều người lớn và trẻ em, những bộ quần áo sặc sỡ đến chóng mặt, các thức uống say sưa và đám rước rồng rắn vui vẻ. Đồng thời anh cũng còn nhớ rõ anh bị tách khỏi đám đông như một dòng lớn sinh động. Lúc đó anh không thể lùi lại được và anh cũng không muốn tránh né. Lúc đó anh cảm thấy ở trần là thích thú. Tất nhiên khi đó anh còn là một em trai nhỏ. Nhưng đôi khi có người ôm choàng và siết chặt lấy anh. Trên đường đi chỗ nào cũng có thức ăn thức uống. Càng ăn và uống thì cậu bé càng thấy thèm. Sau đó đầu óc càng thấy khang khác. Hơi thở của anh nhẹ nhàng. Trong không khí có hương thơm đặc biệt. Và thế rồi đột nhiên anh thấy mình rơi vào một lối đi hẹp: Trên một con đường lăn luôn luôn có tiếng nói nhắc nhở: “Em là một đứa con của đấng Ban ơn, em có phúc ở trong số những đứa trẻ được chọn lọc, chúng ta đưa em lên ánh sáng …:
Các máy móc điện tử đã phát hiện ở ORO khả năng khéo tay khác thường. Từ đó ORO đã được đào tạo thành nhà phẫu thuật và làm việc trong một bệnh viện tại Thành phố của những người có trí nhớ.
Đầu tiên người ta đưa ORO cũng như các trẻ em có năng khiếu đặc biệt khác tới một bệnh viện. Chúng chỉ cần đứng trên một con đường lăn như một tấm băng tải. Suốt dọc đường có tiếng hướng dẫn. Điều này cũng bình thường vì khi còn ở dưới Thành phố bêtông của những người mang vòi thì đời sống của chúng cũng được các máy móc và ánh đèn chiếu hướng dẫn. Các cánh cửa đều tự động đóng mở. Các tín hiệu quang học hướng dẫn chỉ chỗ ngồi cho người vào kiểm tra. Các bàn tay máy đặt các dụng cụ lên cổ và cổ tay họ. Họ cảm thấy như bị mê đi. ORO nhớ mang máng rằng sau đó anh được các máy dạy học, ngoài ra anh không hoàn toàn nhớ rõ điều gì đã xảy ra. ORO nhận được các bài tập về toán học và sinh học. Và phải qua những cuộc luyện tập dần dần nâng cao sự khéo tay. Các máy móc tự động lại tiếp tục kiểm tra, đo và đánh giá trình độ. Sau đó anh được biết rằng, trước tiên anh phải học qua y học đại cương sau đó sẽ được đào tạo về công tác hộ sinh và cuối cùng anh sẽ phải làm việc trong khoa ngoại sản và phải thành thạo tất cả các phương pháp phẫu thuật cũng như sử dụng và sáng tạo các dụng cụ và máy móc của khoa này. Các thao tác giải phẫu sẽ do máy móc tiến hành. Nhưng các nhà nghiên cứu ý học phải lập chương trình cho nó. Sau giờ học hành mệt nhọc, tới giờ nghỉ ban đêm, ORO luôn nghe một giọng đơn điệu nhắc đi nhắc lại:
Con là một đứa con của Đấng Ban Ơn. Hằng ngày con được cung cấp ăn uống đầy đủ và Oxy dồi dào, Oxy là hơi thở của Chúa. Con chỉ được phép dùng nó cho những việc đã quy định. Quyết định của Chúa đã xác định con phải làm những công việc nào đó để nâng cao sự sung túc của hành tinh oxy. Con chỉ được phép nghĩ đến các nhiệm vụ của con. Chỉ được phép nghĩ đến các nhiệm vụ của con mà thôi. Tất cả những lo nghĩ khác sẽ được Đấng Ban Ơn thần thánh giải thoát cho con. Hàng ngày khi đã xong công việc được chỉ định, con hãy nghỉ ngơi và giải trí.
Trong Thành phố của những người có trí nhớ (Người ta không biết ai và lúc nào đã đặt tên cho những thành phố mà trong đó những chuyên gia được chọn lọc sinh sống. Rất có thể tên gọi này là châm biếm vì có thể chính nó muốn nói rằng, điều tốt hơn là người ta không nên nhớ gì hết). Mỗi ngày được chia thành hai phần: nửa đầu tức là buổi sáng được dành cho việc học tập và học xong thì làm việc. Các nhiệm vụ học tập và làm việc không quá lớn và không quá mệt nhọc nhưng đòi hỏi cường độ đặc biệt. Mỗi thanh niên được bố trí trong một buồng riêng và có một máy dạy học riêng. Những hình hiện ra trên màn hình và các máy tính giải thích các hình đó. Các bài tập được nâng dần lên ngày càng khó hơn. Sau mỗi tiết, môn học tạm dừng và lại được nghe một giọng đơn điệu. Nội dung lời giáo huấn đối với ORO và những trẻ khác đều đã quá quen thuộc vì họ được nghe nhiều năm ở Thành phố những người mang vòi trước khi được chọn:
Thoạt tiên Chúa đã tạo ra bầu trời và dưới bầu trời là hành tinh Oxy. Chúa đáng kính và đầy quyền lực, Chúa đã sáng tạo ra một thế giới tươi đẹp …
Đó là môn học tôn giáo đồng thời là môn học về tập quán và công dân giáo dục. Đó là điều mà người ta muốn làm thấm sâu vào trái tim và khối óc các em để không còn có sự hoài nghi có sự suy tư gì về các vấn đề trên nữa và có muốn suy tư cũng không được phép. Khi Oxy được phân phối bởi Đấng Ban Ơn thần thánh và khôn ngoan: Dưới các Thành phố bêtông thì qua ống rốn của Chúa, còn ở đây, trên Thành phố trí nhớ này thì được dồi dào hơn. Đó là một đặc ân và cộng đồng phải đền đáp lại bằng sự tận tụy làm việc. Mỗi người phải học hiểu tốt nhất và chỉ được phép suy tư về công việc riêng của mình được giao. Nếu dùng sự ban ơn thần thánh vào bất kỳ việc nào khác là đáng tội chết.
Hình phạt cho những kẻ phạm tội là cái gì thì các chú học sinh trẻ đều được làm quen rất sớm. Khi một người vào phòng học và ngồi trên ghế tựa, lập tức có những thanh thép chụp lấy thắt lưng và cổ tay họ. Thỉnh thoảng chiếc máy dạy học lại xen lẫn giữa các bài tập những điều cấm kỵ để thử thách học sinh. Ví dụ như vừa giải xong một bài tập vè sinh học thì màn hình trước mặt ORO nhấp nháy và một đứa trẻ hiện ra hỏi: “Ai bắt cậu học giờ này trong lúc cậu thích đứng lên chạy chơi? Vị chúa ra lệnh này là ai? Tại sao ông ta không hiện ra với chúng ta?” Khi đó ORO đặt bút xuống và nhìn tấm hình suy tư theo câu hỏi thì lập tức anh cảm thấy ở cổ tay một cú sốc điện mạnh và lại nghe được một lời răn dạy.
- Chúa nhìn thấy và biết tất cả. Vừa qua con, ORO 01 đã sử dụng khí Oxy sống động và dồi dào được cung cấp cho bộ óc con vào những ý nghĩ tội lỗi. Xin Chúa tha lỗi cho con. Chúa hãy thương yêu con và đừng đầy đọa con trở lại Thành phố bêtông giữa những người mang vòi.
- Xin Chúa thương yêu con và vì những tội lỗi của con đừng đẩy con xuống giữa những người không được phép làm công tác khoa học, không được phép sống như ý thích, yêu nhau theo ý thích. Xin đừng loại con khỏi những người được chọn lọc. Được như vậy, con sẽ luôn luôn vâng lời, dễ bảo.
Những điều này ORO phải học đi học lại cho đến khi anh ta khôn lớn. Một ngày kia, chiếc máy dạy học báo cho anh biết.
- Vừa qua là bài tập cuối cùng của anh. Ngày mai anh phải trình diện ở quảng trường trung tâm của thành phố. Ở đó, một con đường lăn sẽ đưa anh tới nơi làm việc, một bệnh viện đã được chỉ định. Sau đó, các vòng kiểm tra ở tay anh được tháo ra và anh dọn vào một ngôi nhà đẹp đẽ: anh đã trưởng thành.
Trong suốt thời gian học tập, thiếu niên nam nữ được học tập trong các trường hỗn hợp gồm cả trai và gái. Giờ nghỉ học họ được chơi ở các câu lạc bộ. Trong các trường học, ngoài việc học tập ra còn có ba việc chính: chơi bài, uống rượu và yêu đương. Rượu giống như bia, lượng uống không hạn chế. Sau khi uống loại này, đa số họ sống từ buổi chiều cho tới sáng hôm sau đều trong tình trạng say nhẹ. Thức uống làm họ phấn chấn hơn và có pha một ít chế phẩm hoócmôn. Còn mặt sau các con bài chơi thì có in các hình ảnh tôn giáo: Những cảnh trích trong lịch sử Đấng Ban Ơn thần thánh: Chúa hà hơi vào các hình hài bằng đất cho có một tâm hồn. Con chim ác xuất hiện và những lầm lỗi của con người… Bản thân trò chời bài này cũng là một hành động hợp ý Chúa, gần như là hành động tôn giáo. Trên trần các phòng ngủ của các trường học cũng vậy. Ở đó, bất kỳ ai tùy thích có thể ngủ bất kỳ với ai. Nhìn lên trần thấy quét màu xanh trên đó có Mặt trời và 12 Mặt trăng. Và nếu không có đủ 33 triệu Ngôi sao thì cũng có rất nhiều ngôi sao. Trong các câu lạc bộ có sách vở và tất nhiên là có truyền hình. Trong truyền hình, họ thường được xem các phim quay ở Thành phố của những người mang vòi: Đấng Ban Ơn thần thánh cũng lo cho cả những sinh vật thấp hèn đó. Họ cũng đóng góp cho cộng đồng, đóng góp cho hành tinh Oxy. Cuốn phim dạy như vậy và cuối buổi chiếu phim vang lên lời cầu nguyện tạ ơn: “ Con là một người có hạnh phúc được lựa chon … xin Chúa đừng vì những tội lỗi của con mà đày đọa con xuống nơi những người mang vòi.”
Nơi làm việc đầu tiên của ORO là một bệnh viện phẫu thuật. Trong đó anh lo việc đưa các thao tác phẫu thuật và các phương pháp phẫu thuật mới vào chương trình tự động. Sau đó anh được chuyển sang khoa sản của bệnh viện.
Ở các Thành phố bêtông không có trẻ con được sinh ra. Như trong môn học tôn giáo đã dạy. Các trẻ em chỉ xuống đó sau ngày Đại Lễ Mùa Xuân từ Trên Trời. Các trẻ em được sinh ra trong Thành phố trí nhớ. Được chăm sóc và lớn lên ở đó. Đến lên 5 hoặc lên 6 thì cũng được đưa xuống Thành phố của những người mang vòi. Ở đó chúng sinh hoạt và học tập. Sau một vài mùa xuân chúng được các máy móc tự động phân loại.
Khi còn học ở trường, ON đã tìm hiểu IF 717 và anh đặt tên hiệu cho cô là “Ánh Dương”. Thường thường các chàng trai đều đặt tên hiệu cho các cô gái mình yêu. ON và Ánh Dương quyết định chung sống với nhau lâu dài. Việc đi tìm nhà ở thật đơn giản. Ở cửa các ngôi nhà không có người ở, bạn chỉ cần đút một tấm thẻ đục lỗ có giá trị vào là chiếc máy tự động có tế bào quang điện sẽ trao cho bạn chiếc chìa khóa cửa nhà. Và người chủ mới có thể dọn đến không cần thủ tục gì khác.
ON và Ánh Dương đã vừa ý một ngôi nhà một tầng rộng rãi, quét sơn màu ve nhạt. Nhà có nhiều phòng rất tiện nghị, giường màu phấn dìu dịu. Không biết bao nhiêu là tranh ảnh, thảm và hoa giả. ORO ở ngay ngay nhà kế bên và trở thành láng giềng của họ. Lúc đầu cũng như mọi người, họ chỉ chơi bài với nhau và chuyện trò về chương trình truyền hình.
(Thiếu 118 – 119)
Anh lo sợ khi anh tranh luận suốt đêm với ON, anh sợ hãi khi ON và Ánh Dương thú nhận với anh là muốn sống mãi mãi với nhau. Anh càng sợ hãi hơn khi biết được Ánh Dương sắp có một đứa con và anh bí mật giúp đỡ đứa con đó. Anh sợ hãi vì trong đầu anh ngập đầy những môn khoa học bị cấm, những câu hỏi và những nghi vấn. Anh run sợ lo rằng đến kỳ xét nghiệm kiểm tra gần nhất, sự ức chế với chất thuốc Ngủ sâu sẽ không tác dụng. Và lần chụp não đồ có thể tố giác anh một cách không thể cứu vãn được. Nếu vậy anh khó lòng thoát khỏi số mệnh và sẽ phải trải qua một lần can thiệp não mới nữa. Hoặc là anh sẽ bị kết án xóa trí nhớ, đày xuống nơi tối tăm vĩnh viễn giữa những nhường mang vòi. Nơi mà chưa hề một ai trở lại được. Anh còn lo sợ vì anh biết rõ ràng có một hang động bí mật gần thành phố. Ở đó, nơi trốn tránh tất cả những người dám suy nghĩ, dám kích động phần không yêu cầu của bộ não. Đó cũng là nơi mà những kẻ có gan đã lựa chọn thay cho việc bị đày đọa xuống Thành phố bêtông. Đó cũng là nơi những người bất chấp mọi phẫu thuật, mọi tác động, vẫn có thai được và vẫn sinh được những đứa trẻ. ORO biết rõ về động này và những hang bí mật này. Trước khi sinh ON con, anh đã dẫn Ánh Dương tới đó và chỉ sau đó it lâu ON bị sa lưới kiểm tra, bị lãnh án xóa trí nhớ và bị đày đọa xuống Thành phố bêtông.
Nhưng cuối cùng, sự thông cảm với nỗi khổ của anh đã thắng được sự sợ hãi trong trái tim. ORO thay vao đó là một lòng quyết tâm cứng rắn. Theo anh thì ON là người cùng khổ và bị chìm đắm không sao chống đỡ nổi. Nhưng đối với Ánh Dương và ON con và tất cả những người trốn tránh trong các hang hốc của núi trọc thì lâu lâu anh lại mang thuốc men và thực phẩm cấp cho họ. Ít nhất anh phải cứu lấy những người đó. Do vậy, ORO thường xuyên đến thăm hang động. Đêm đêm, thường có những người bạn tốt đi cùng với anh mang các gói quà tới rồi biến mất. Đó chính là những người VÔ HÌNH. Họ biết rõ nhau dù chỉ mới gặp và không biết mỗi người làm việc ở nơi nào và tất cả có bao nhiêu người. Rất ít người liên lạc được với nhau. Thường ban ngày họ không dám gặp nhau vì họ sợ gây nguy hiểm cho nhau và cho những người trốn tránh trong hang động.
ORO là một trong những người dám giúp đỡ những người trong hang động nhiều nhất. Nếu anh gặp chuyện gì thì nguy hiểm cũng có thể đe dọa những người khác. Chính vì thế mà lúc ON tới nhà, ORO phải giả ngây giả điếc, chỉ chậm một phút nữa là ORO sẽ chạy theo bạn. Bởi vì nếu đó đích thực là ON, nếu ON đã trở về được thì điều đó không chỉ có nghĩa rằng ON cần tới anh, tìm kiếm anh mà còn có nghĩa là từ dưới đó, có thể trở về được.
Suy nghĩ vậy nên ORO đứng ngồi không yên. Anh vội lấy thuốc Ngủ sâu ra uống. Nhưng cái thứ thuốc nước có tác dụng an thần và ru ngủ tốt cũng không thể giúp gì anh lúc này. Anh bị mối nghi hoặc thầm lặng dày vò. Lúc thì nằm xuống, lúc thì vụt đứng lên. Đến buổi sáng ngày thứ năm thì Ánh Dương nhắn tin bí mật tới là ON đã trở về. ORO cũng trả lời cô theo con đường bí mật như vậy: "Đêm nay chúng ta sẽ gặp nhau ở chỗ thường lệ".
(Bạn đang đọc truyện tại VipTruyen.Pro chúc các bạn đọc truyện vui vẻ)
S
ự tình thế này. Thực ra ORO đã lập tức nhận ngay ra ON.
Anh đã nhận ra ON khi mới nghe tiếng gọi và khi còn dừng lại ở trên thềm thang gác. Ý nghĩ đầu tiên khi thấy ON đứng dưới phòng khách bên một người lạ mặt là chạy thẳng tới ôm lấy cổ bạn. Nhưng trong giây tiếp theo anh có một suy nghĩ trái ngược: Điều này không thể xảy ra được. Đây chỉ có thể là một sự khiêu khích … Điều này không thể xảy ra được … ON làm thế nào mà trở về được nhỉ? Vì từ “đó” chưa hề có một người nào quay trở lại được … Vậy thì người này nhất định không thể là ON. Anh ta chỉ mang ngoại hình của ON và bắt chước tiếng nói của ON … Và còn người lạ đi cùng? Không, mình không được phép tự bộc lộ.
Sau khi khước từ với giọng nói lạnh lùng, ORO nhìn thấy trên khuôn mặt ON thể hiện sự ngỡ ngàng và thất vọng thì anh lại chần chừ giây lát. Nhưng anh quyết định không ra mặt và anh cứ đúng âm thầm không nhìn ai cả và chờ cho tới khi ON thổn thức vì thất vọng cùng với người lạ mặt rời khỏi nhà anh.
Tuy vậy, suốt ngày hôm đó anh ở trong trạng thái hốt hoảng và kích động. Sự yên tĩnh và tính kỷ luật của anh đã hoàn toàn biến mất. May thay, hôm đó lại trúng vào ngày nghỉ của anh, ORO cảm thấy rằng nếu cứ để thế này khi tới chỗ làm việc, thì thần kinh của anh sẽ bị rệu rã không làm được gì. Anh để sẵn lọ thuốc ngủ trên bàn, bên cạnh mình để bất kỳ lúc nào cũng có thể uống được. Anh có cảm giác chưa khi nào bị nguy hiểm to lớn như vậy.
ORO trạc tuổi ON. Nguồn gốc và thời niên thiếu, anh cũng không còn nhớ gì. Anh chỉ có những kỷ niệm rất mờ nhạt và nhòe nhoẹt bên Thành phố bêtông với một chiếc mặt nạ nhỏ. Đôi khi anh còn nhớ đến một dây kệ dài vô tận chất đầy gạch nhưng anh đã đánh rơi xuống. Lúc ấy một tiếng chuông lanh lảnh vang lên một miệng giếng mở ra và nuốt chửng những hòn gạch vừa rơi xuống. Còn lưu niệm sau đó của anh thì đã là Ngày Hội Mùa Xuân. Trong đám rước có nhiều người lớn và trẻ em, những bộ quần áo sặc sỡ đến chóng mặt, các thức uống say sưa và đám rước rồng rắn vui vẻ. Đồng thời anh cũng còn nhớ rõ anh bị tách khỏi đám đông như một dòng lớn sinh động. Lúc đó anh không thể lùi lại được và anh cũng không muốn tránh né. Lúc đó anh cảm thấy ở trần là thích thú. Tất nhiên khi đó anh còn là một em trai nhỏ. Nhưng đôi khi có người ôm choàng và siết chặt lấy anh. Trên đường đi chỗ nào cũng có thức ăn thức uống. Càng ăn và uống thì cậu bé càng thấy thèm. Sau đó đầu óc càng thấy khang khác. Hơi thở của anh nhẹ nhàng. Trong không khí có hương thơm đặc biệt. Và thế rồi đột nhiên anh thấy mình rơi vào một lối đi hẹp: Trên một con đường lăn luôn luôn có tiếng nói nhắc nhở: “Em là một đứa con của đấng Ban ơn, em có phúc ở trong số những đứa trẻ được chọn lọc, chúng ta đưa em lên ánh sáng …:
Các máy móc điện tử đã phát hiện ở ORO khả năng khéo tay khác thường. Từ đó ORO đã được đào tạo thành nhà phẫu thuật và làm việc trong một bệnh viện tại Thành phố của những người có trí nhớ.
Đầu tiên người ta đưa ORO cũng như các trẻ em có năng khiếu đặc biệt khác tới một bệnh viện. Chúng chỉ cần đứng trên một con đường lăn như một tấm băng tải. Suốt dọc đường có tiếng hướng dẫn. Điều này cũng bình thường vì khi còn ở dưới Thành phố bêtông của những người mang vòi thì đời sống của chúng cũng được các máy móc và ánh đèn chiếu hướng dẫn. Các cánh cửa đều tự động đóng mở. Các tín hiệu quang học hướng dẫn chỉ chỗ ngồi cho người vào kiểm tra. Các bàn tay máy đặt các dụng cụ lên cổ và cổ tay họ. Họ cảm thấy như bị mê đi. ORO nhớ mang máng rằng sau đó anh được các máy dạy học, ngoài ra anh không hoàn toàn nhớ rõ điều gì đã xảy ra. ORO nhận được các bài tập về toán học và sinh học. Và phải qua những cuộc luyện tập dần dần nâng cao sự khéo tay. Các máy móc tự động lại tiếp tục kiểm tra, đo và đánh giá trình độ. Sau đó anh được biết rằng, trước tiên anh phải học qua y học đại cương sau đó sẽ được đào tạo về công tác hộ sinh và cuối cùng anh sẽ phải làm việc trong khoa ngoại sản và phải thành thạo tất cả các phương pháp phẫu thuật cũng như sử dụng và sáng tạo các dụng cụ và máy móc của khoa này. Các thao tác giải phẫu sẽ do máy móc tiến hành. Nhưng các nhà nghiên cứu ý học phải lập chương trình cho nó. Sau giờ học hành mệt nhọc, tới giờ nghỉ ban đêm, ORO luôn nghe một giọng đơn điệu nhắc đi nhắc lại:
Con là một đứa con của Đấng Ban Ơn. Hằng ngày con được cung cấp ăn uống đầy đủ và Oxy dồi dào, Oxy là hơi thở của Chúa. Con chỉ được phép dùng nó cho những việc đã quy định. Quyết định của Chúa đã xác định con phải làm những công việc nào đó để nâng cao sự sung túc của hành tinh oxy. Con chỉ được phép nghĩ đến các nhiệm vụ của con. Chỉ được phép nghĩ đến các nhiệm vụ của con mà thôi. Tất cả những lo nghĩ khác sẽ được Đấng Ban Ơn thần thánh giải thoát cho con. Hàng ngày khi đã xong công việc được chỉ định, con hãy nghỉ ngơi và giải trí.
Trong Thành phố của những người có trí nhớ (Người ta không biết ai và lúc nào đã đặt tên cho những thành phố mà trong đó những chuyên gia được chọn lọc sinh sống. Rất có thể tên gọi này là châm biếm vì có thể chính nó muốn nói rằng, điều tốt hơn là người ta không nên nhớ gì hết). Mỗi ngày được chia thành hai phần: nửa đầu tức là buổi sáng được dành cho việc học tập và học xong thì làm việc. Các nhiệm vụ học tập và làm việc không quá lớn và không quá mệt nhọc nhưng đòi hỏi cường độ đặc biệt. Mỗi thanh niên được bố trí trong một buồng riêng và có một máy dạy học riêng. Những hình hiện ra trên màn hình và các máy tính giải thích các hình đó. Các bài tập được nâng dần lên ngày càng khó hơn. Sau mỗi tiết, môn học tạm dừng và lại được nghe một giọng đơn điệu. Nội dung lời giáo huấn đối với ORO và những trẻ khác đều đã quá quen thuộc vì họ được nghe nhiều năm ở Thành phố những người mang vòi trước khi được chọn:
Thoạt tiên Chúa đã tạo ra bầu trời và dưới bầu trời là hành tinh Oxy. Chúa đáng kính và đầy quyền lực, Chúa đã sáng tạo ra một thế giới tươi đẹp …
Đó là môn học tôn giáo đồng thời là môn học về tập quán và công dân giáo dục. Đó là điều mà người ta muốn làm thấm sâu vào trái tim và khối óc các em để không còn có sự hoài nghi có sự suy tư gì về các vấn đề trên nữa và có muốn suy tư cũng không được phép. Khi Oxy được phân phối bởi Đấng Ban Ơn thần thánh và khôn ngoan: Dưới các Thành phố bêtông thì qua ống rốn của Chúa, còn ở đây, trên Thành phố trí nhớ này thì được dồi dào hơn. Đó là một đặc ân và cộng đồng phải đền đáp lại bằng sự tận tụy làm việc. Mỗi người phải học hiểu tốt nhất và chỉ được phép suy tư về công việc riêng của mình được giao. Nếu dùng sự ban ơn thần thánh vào bất kỳ việc nào khác là đáng tội chết.
Hình phạt cho những kẻ phạm tội là cái gì thì các chú học sinh trẻ đều được làm quen rất sớm. Khi một người vào phòng học và ngồi trên ghế tựa, lập tức có những thanh thép chụp lấy thắt lưng và cổ tay họ. Thỉnh thoảng chiếc máy dạy học lại xen lẫn giữa các bài tập những điều cấm kỵ để thử thách học sinh. Ví dụ như vừa giải xong một bài tập vè sinh học thì màn hình trước mặt ORO nhấp nháy và một đứa trẻ hiện ra hỏi: “Ai bắt cậu học giờ này trong lúc cậu thích đứng lên chạy chơi? Vị chúa ra lệnh này là ai? Tại sao ông ta không hiện ra với chúng ta?” Khi đó ORO đặt bút xuống và nhìn tấm hình suy tư theo câu hỏi thì lập tức anh cảm thấy ở cổ tay một cú sốc điện mạnh và lại nghe được một lời răn dạy.
- Chúa nhìn thấy và biết tất cả. Vừa qua con, ORO 01 đã sử dụng khí Oxy sống động và dồi dào được cung cấp cho bộ óc con vào những ý nghĩ tội lỗi. Xin Chúa tha lỗi cho con. Chúa hãy thương yêu con và đừng đầy đọa con trở lại Thành phố bêtông giữa những người mang vòi.
- Xin Chúa thương yêu con và vì những tội lỗi của con đừng đẩy con xuống giữa những người không được phép làm công tác khoa học, không được phép sống như ý thích, yêu nhau theo ý thích. Xin đừng loại con khỏi những người được chọn lọc. Được như vậy, con sẽ luôn luôn vâng lời, dễ bảo.
Những điều này ORO phải học đi học lại cho đến khi anh ta khôn lớn. Một ngày kia, chiếc máy dạy học báo cho anh biết.
- Vừa qua là bài tập cuối cùng của anh. Ngày mai anh phải trình diện ở quảng trường trung tâm của thành phố. Ở đó, một con đường lăn sẽ đưa anh tới nơi làm việc, một bệnh viện đã được chỉ định. Sau đó, các vòng kiểm tra ở tay anh được tháo ra và anh dọn vào một ngôi nhà đẹp đẽ: anh đã trưởng thành.
Trong suốt thời gian học tập, thiếu niên nam nữ được học tập trong các trường hỗn hợp gồm cả trai và gái. Giờ nghỉ học họ được chơi ở các câu lạc bộ. Trong các trường học, ngoài việc học tập ra còn có ba việc chính: chơi bài, uống rượu và yêu đương. Rượu giống như bia, lượng uống không hạn chế. Sau khi uống loại này, đa số họ sống từ buổi chiều cho tới sáng hôm sau đều trong tình trạng say nhẹ. Thức uống làm họ phấn chấn hơn và có pha một ít chế phẩm hoócmôn. Còn mặt sau các con bài chơi thì có in các hình ảnh tôn giáo: Những cảnh trích trong lịch sử Đấng Ban Ơn thần thánh: Chúa hà hơi vào các hình hài bằng đất cho có một tâm hồn. Con chim ác xuất hiện và những lầm lỗi của con người… Bản thân trò chời bài này cũng là một hành động hợp ý Chúa, gần như là hành động tôn giáo. Trên trần các phòng ngủ của các trường học cũng vậy. Ở đó, bất kỳ ai tùy thích có thể ngủ bất kỳ với ai. Nhìn lên trần thấy quét màu xanh trên đó có Mặt trời và 12 Mặt trăng. Và nếu không có đủ 33 triệu Ngôi sao thì cũng có rất nhiều ngôi sao. Trong các câu lạc bộ có sách vở và tất nhiên là có truyền hình. Trong truyền hình, họ thường được xem các phim quay ở Thành phố của những người mang vòi: Đấng Ban Ơn thần thánh cũng lo cho cả những sinh vật thấp hèn đó. Họ cũng đóng góp cho cộng đồng, đóng góp cho hành tinh Oxy. Cuốn phim dạy như vậy và cuối buổi chiếu phim vang lên lời cầu nguyện tạ ơn: “ Con là một người có hạnh phúc được lựa chon … xin Chúa đừng vì những tội lỗi của con mà đày đọa con xuống nơi những người mang vòi.”
Nơi làm việc đầu tiên của ORO là một bệnh viện phẫu thuật. Trong đó anh lo việc đưa các thao tác phẫu thuật và các phương pháp phẫu thuật mới vào chương trình tự động. Sau đó anh được chuyển sang khoa sản của bệnh viện.
Ở các Thành phố bêtông không có trẻ con được sinh ra. Như trong môn học tôn giáo đã dạy. Các trẻ em chỉ xuống đó sau ngày Đại Lễ Mùa Xuân từ Trên Trời. Các trẻ em được sinh ra trong Thành phố trí nhớ. Được chăm sóc và lớn lên ở đó. Đến lên 5 hoặc lên 6 thì cũng được đưa xuống Thành phố của những người mang vòi. Ở đó chúng sinh hoạt và học tập. Sau một vài mùa xuân chúng được các máy móc tự động phân loại.
Khi còn học ở trường, ON đã tìm hiểu IF 717 và anh đặt tên hiệu cho cô là “Ánh Dương”. Thường thường các chàng trai đều đặt tên hiệu cho các cô gái mình yêu. ON và Ánh Dương quyết định chung sống với nhau lâu dài. Việc đi tìm nhà ở thật đơn giản. Ở cửa các ngôi nhà không có người ở, bạn chỉ cần đút một tấm thẻ đục lỗ có giá trị vào là chiếc máy tự động có tế bào quang điện sẽ trao cho bạn chiếc chìa khóa cửa nhà. Và người chủ mới có thể dọn đến không cần thủ tục gì khác.
ON và Ánh Dương đã vừa ý một ngôi nhà một tầng rộng rãi, quét sơn màu ve nhạt. Nhà có nhiều phòng rất tiện nghị, giường màu phấn dìu dịu. Không biết bao nhiêu là tranh ảnh, thảm và hoa giả. ORO ở ngay ngay nhà kế bên và trở thành láng giềng của họ. Lúc đầu cũng như mọi người, họ chỉ chơi bài với nhau và chuyện trò về chương trình truyền hình.
(Thiếu 118 – 119)
Anh lo sợ khi anh tranh luận suốt đêm với ON, anh sợ hãi khi ON và Ánh Dương thú nhận với anh là muốn sống mãi mãi với nhau. Anh càng sợ hãi hơn khi biết được Ánh Dương sắp có một đứa con và anh bí mật giúp đỡ đứa con đó. Anh sợ hãi vì trong đầu anh ngập đầy những môn khoa học bị cấm, những câu hỏi và những nghi vấn. Anh run sợ lo rằng đến kỳ xét nghiệm kiểm tra gần nhất, sự ức chế với chất thuốc Ngủ sâu sẽ không tác dụng. Và lần chụp não đồ có thể tố giác anh một cách không thể cứu vãn được. Nếu vậy anh khó lòng thoát khỏi số mệnh và sẽ phải trải qua một lần can thiệp não mới nữa. Hoặc là anh sẽ bị kết án xóa trí nhớ, đày xuống nơi tối tăm vĩnh viễn giữa những nhường mang vòi. Nơi mà chưa hề một ai trở lại được. Anh còn lo sợ vì anh biết rõ ràng có một hang động bí mật gần thành phố. Ở đó, nơi trốn tránh tất cả những người dám suy nghĩ, dám kích động phần không yêu cầu của bộ não. Đó cũng là nơi mà những kẻ có gan đã lựa chọn thay cho việc bị đày đọa xuống Thành phố bêtông. Đó cũng là nơi những người bất chấp mọi phẫu thuật, mọi tác động, vẫn có thai được và vẫn sinh được những đứa trẻ. ORO biết rõ về động này và những hang bí mật này. Trước khi sinh ON con, anh đã dẫn Ánh Dương tới đó và chỉ sau đó it lâu ON bị sa lưới kiểm tra, bị lãnh án xóa trí nhớ và bị đày đọa xuống Thành phố bêtông.
Nhưng cuối cùng, sự thông cảm với nỗi khổ của anh đã thắng được sự sợ hãi trong trái tim. ORO thay vao đó là một lòng quyết tâm cứng rắn. Theo anh thì ON là người cùng khổ và bị chìm đắm không sao chống đỡ nổi. Nhưng đối với Ánh Dương và ON con và tất cả những người trốn tránh trong các hang hốc của núi trọc thì lâu lâu anh lại mang thuốc men và thực phẩm cấp cho họ. Ít nhất anh phải cứu lấy những người đó. Do vậy, ORO thường xuyên đến thăm hang động. Đêm đêm, thường có những người bạn tốt đi cùng với anh mang các gói quà tới rồi biến mất. Đó chính là những người VÔ HÌNH. Họ biết rõ nhau dù chỉ mới gặp và không biết mỗi người làm việc ở nơi nào và tất cả có bao nhiêu người. Rất ít người liên lạc được với nhau. Thường ban ngày họ không dám gặp nhau vì họ sợ gây nguy hiểm cho nhau và cho những người trốn tránh trong hang động.
ORO là một trong những người dám giúp đỡ những người trong hang động nhiều nhất. Nếu anh gặp chuyện gì thì nguy hiểm cũng có thể đe dọa những người khác. Chính vì thế mà lúc ON tới nhà, ORO phải giả ngây giả điếc, chỉ chậm một phút nữa là ORO sẽ chạy theo bạn. Bởi vì nếu đó đích thực là ON, nếu ON đã trở về được thì điều đó không chỉ có nghĩa rằng ON cần tới anh, tìm kiếm anh mà còn có nghĩa là từ dưới đó, có thể trở về được.
Suy nghĩ vậy nên ORO đứng ngồi không yên. Anh vội lấy thuốc Ngủ sâu ra uống. Nhưng cái thứ thuốc nước có tác dụng an thần và ru ngủ tốt cũng không thể giúp gì anh lúc này. Anh bị mối nghi hoặc thầm lặng dày vò. Lúc thì nằm xuống, lúc thì vụt đứng lên. Đến buổi sáng ngày thứ năm thì Ánh Dương nhắn tin bí mật tới là ON đã trở về. ORO cũng trả lời cô theo con đường bí mật như vậy: "Đêm nay chúng ta sẽ gặp nhau ở chỗ thường lệ".
P
eter đang ngủ thì Ánh Dương đánh thức anh dậy. Trời còn khuya.
Cùng với ON họ đi sâu vào phía trong hang. Hang động lúc này tối như hũ nút. Peter phải xử dụng cây đèn Pin nguyên tử. Ánh pha của đèn pin làm các người đang ngủ trong hang giật mình, trẻ con sợ hãi ...
Ánh Dương phải vừa đi vừa hô " Bạn tốt, bạn tốt đấy" trên đường họ đi qua.
Họ đi khá nhanh và Peter cố gắng nhìn quanh khắp mọi nơi và để ý đến mọi thứ.
Con đường dài hơn Peter tưởng. Và ngay trong nhưng đoạn hang sâu này, chỗ nào cũng có người. Tuy vậy, Peter không thể xác định được rằng có vài chục hay vài trăm hay cả hàng ngàn người trốn tránh.
Cắt ngang con đường dài dưới đất có nhiều mạch nước nhỏ. Trên đó người ta đặt những tấm ván làm cầu. Đây đó có những giọt nước từ đỉnh hang rơi xuống. Nước trong vắt như pha lê. Thành hang có nhiều chỗ trần và nhiều chỗ khác lại phủ nhiều rêu. Có những bụi cây và những vườn rau ngầm dưới đất. Không khí thật là dễ chịu. Có một vài con đường ngang không có người ở. Ánh Dương giải thích:
- Ở đây chúng tôi trồng nấm. Nấm mọc rất nhiều và đều có thể ăn được.
Như vây, có thể giải thích được rằng, một phần Oxy trong hang do các cây này tiết ra. Nhưng phần Oxy được giải phóng ấy thì quá ít. Vậy phần Oxy còn lại ở đâu ra? Nấm ăn ở đâu ra? Các hạt giống cây trồng ở đâu ra? Đối với Peter điều sau cùng này có vẻ dễ hiểu hơn vì anh biết trên hành tinh Oxy đã có một thời có bầu khí quyển có Oxy, còn có cả một thế giới động vật và thực vật.
Bây giờ, ánh sáng ngọn đèn pin của Peter lại chiếu sáng một cái hang lớn hơn. Giữa hang này có cả những tảng đá. Ta không thể biết được rằng đó là những hình thù tự nhiên hay do bàn tay con người đã xếp lại thành ghế. Trên các ghế độc đáo này có chừng ba mươi người ngồi có cả nam và nữ, trong số đó có cả ORO. Ánh Dương nói:
- Chúng tôi đã tới.
Cô quay lại Peter giới thiệu thêm:
- Còn đây là cái "Vườn" của chúng tôi: Lối vào hang nằm ở cửa động. Phần bên trong động được gọi là vườn. Không thể biết được ai đã tìm ra nó và vào lúc nào. Nhưng nhiều người biết sự tồn tại của nó. Không rõ nước và Oxy được đưa tới đây từ nơi nào. Người ta có thể nằm nghỉ ở đây một thời gian mà không cần dụng cụ hô hấp. Những người trốn tránh đã nâng cao hàm lượng Oxy bằng cách trồng thêm nhiều loại cây khác nhau. Những người dân ở thành phố nói chung không khi nào qua lại đây vì lẽ đơn giản là họ không dám xuống. Hang động còn có tên gọi nữa là "Hơi thở của Ma Quỷ" và "Hố sâu của tội lỗi". Nhưng tại sao họ lại gọi như thế? Vì sau khi hoàn thành công việc, họ có cuộc sống thoải mái, trong các cửa hàng ăn và câu lạc bộ. Ở đó họ ăn uống, chơi bài, làm tình với nhau và chịu ơn thế lực vĩnh cửu, ông chủ của bầu trời hay là người sáng tạo ra hành tinh Oxy.
Còn nói chung, người ta không cấm người dân thành phố rời khỏi thành phố hoặc tới thám hiểm chung quanh hang động. Những cuộc du lịch như vậy không bị cấm đoán nhưng không thể thực hiện được. Lý do rất giản đơn là ở Thành phố những người mang vòi cũng như Thành phố của những người có trí nhớ không hề có một phương tiên giao thông nào như ở Trái Đất thường có. Không có xe hơi, không có xe lửa, xe buýt, không có cả trực thăng. Khiêm cường lắm mới so sánh được những con đường lăn của thành phố với phương tiện giao thông của Trái Đất. Những con đường đó cũng chỉ có ít. Vì chúng chỉ làm nhiệm vụ vận chuyển mọi người từ quảng trường trung tâm đến nơi làm việc và trở về.
Những người dân ở thành phố không di chuyển nhiều lắm vì khẩu phần Oxy chỉ đủ cho thời gian để đi từ nơi này đến nơi khác trong thành phố. Còn giữa các thành phố có một khoảng tối trống rỗng, hoang phế. Khoảng trống này là bao nhiêu họ không thể đoán biết được. Các kỹ sư, kiến trúc sư, nhà thiết kế và các nhà bác học tương lai được học hành rất nhiều trong Thành phố trí nhớ. Nhưng trong các môn học không hề có địa lý, thiên văn và lịch sử. Do đó không một ai biết được hành tinh Oxy có bao nhiêu dân, hoặc lục địa nào có người ở trong 17 lục địa, hoặc có bao nhiêu Thành phố phục vụ và bao nhiêu Thành phố trí nhớ. Họ chỉ có một khái niệm mơ hồ là ở đâu đó có một Trung tâm điều khiển. Ngay những người cố tình suy nghĩ điều này, phải nói số này là rất ít, họ cũng chỉ thấy được những máy tính tự động, phiếu đục lỗ và các máy móc dụng cụ khác. Họ không thể nghĩ tới được Người Sáng Tạo ra tất cả các bộ máy đáng sợ này là ai? Ở đâu? Thuộc nòi giống nào?
Những người đầu tiên tiến đến hang động là phụ nữ. Những người gặp tình huống tương tự như Ánh Dương tuy đã qua xử lý triệt sản nhưng vẫn có bầu mà muốn cứu con mình. Rồi sau đó là những người mà bộ não làm việc không chỉ với các nhiệm vụ đã giao mà còn đặt ra những câu hỏi, còn nghi ngờ, còn không nhận thức được rằng trong giờ nghỉ không uống bia mà quân tâm đến một ngành khoa học khác là tội lỗi. Và những người luôn luôn lo sợ một cuộc xét nghiệm kiểm tra đột xuất sẽ tố giác họ như ORO. Điều tẹ hại nhất là họ không biết ai tiến hành những cuộc xét nghiệm đó và tại sao phải làm như vậy. Chẳng lẽ Chúa phải dùng tới một phương pháp như vậy mới nhìn thấy được tâm hồn họ hay sao? Tại sao khi bạn trải qua một nửa đời người trong tình trạng nửa say nửa mê thì lại là điều làm cho Chúa vui lòng? Tại sao người ta lại cần phải can thiệp vào chức năng của não bộ. Tại sao? Tại sao? Tại sao? Nghi vấn đẻ ra nghi vấn. Tư duy phát sinh tư duy. Cái bộ não bị ức chế và kìm kẹp bắt đầu hoạt động ...
Trong hang động có cả những người mẹ đã tìm được cách trốn trước khi bị tách khỏi con mình. Một vài hôm trước ngày Đại Lễ Mùa Xuân, nhiều phụ nữ lo lắng tới mức kinh hoàng. Hình như linh tính họ cảm thấy người ta sắp bắt mất con của mình rồi sau đó sẽ tống mình trở lại sự lãng quên giữa những người mang vòi. Đúng vào dịp này ORO cùng vài nhà bác học nữa đang tiến hành những cuộc xét nghiệm và đo lường kiểm tra. ORO bèn bổ một ít phiếu đục lỗ sang nhóm tử vong và giúp các người mẹ mang con trốn khỏi bệnh viện.
Trong trường hợp này, các máy ghi chép thực hiện công việc mình "Như máy" nên không ai tìm kiếm những người chạy trốn.
Ánh Dương lên tiếng:
- Thưa các bạn, hôm nay chúng ta sẽ được nghe báo cáo về những chuyện lạ chưa ai được biết. Người này là người bạn đời, chồng tôi, là cha của đứa con trai tôi, chính là ON 711314. Anh vừa thoát khỏi Thành phố những người mang vòi trở lại. Còn đây là Peter Mac Gullivơ, anh bạn rất thân thiết, đến với chúng ta từ một thế giới xa xăm.
ORO vụt lao tới và ôm chầm lấy ON. Còn những người khác im lặng mở to mắt nhìn hai người mới tới.
Đầu tiên ON báo cáo về việc họ chạy trốn khỏi Thành phố những người mang vòi, về tấm bản đồ địa hình mà anh đã thấy trong cuốn sách bị cấm và vẽ lại theo trí nhớ. Anh cũng nói rõ về con đường mòn của quỷ trong đêm tối như mực và về điểm xuât sphát chạy trốn vào ngày Đại Lễ Mùa Xuân. Anh mô tả Thành phố những người mang vòi và cách bảo vệ trí nhớ của anh nhờ sự giúp đỡ của ORO. Sau đó anh giới thiệu Peter Mac Gullivơ là người dân của một thế giới xa xôi và là người nắm được bí mật về sản xuất Oxy. Điều này mâu thuẫn với học thuyết được nhồi nhét ở hành tinh Oxy rằng Oxy chỉ có một nguồn duy nhất là sự ban ơn của Chúa cấp cho và lượng Oxy không thể tăng cũng không thể giảm được ...
ON đã kể xong và con mắt mọi người đổ dồn vào Peter chờ đợi.
Những điều Peter kể sau đó, kích thích người nghe hơn cuốn tiểu thuyết giật gân nhất và say sưa hơn cả loại thuốc giọt mà họ vẫn uống. Tuy rằng anh chỉ thông báo ngắn gọn vài sự việc cụ thể. Anh kể chuyện rằng mình đã xuất phát từ một thiên thể, một hành tinh giống như hành tinh Oxy vì trong vũ trụ có không biết phải là một, không phải là 12 không phải là 33 triệu mà nhiều tới mức không thể đếm được. Trên hành tinh Trái Đất quê hương của anh có dồi dào Oxy để mọi người hít thở tự do và đi tới nơi nào họ muốn. Mỗi người đều có thể học tập những môn mình ưa thích. Các sinh vật sống ở đó là những con người rất hạnh phúc. Trong lịc sử Trái Đất, cũng đã có một thời đại mà cuộc sống bị đe dọa vì các nguồn nước bị ô nhiễm. Thu hoạch của đồng ruộng bị giảm thấp. Những người dân các thành phố phải đấu tranh cho khỏi bị ngạt thở. Cũng đã có những người bị ngã trên đường phố và bị ngộ độc khí thải chết. Có những người mất trí nhớ. Các giống vật lăn ra chết ...
Đến đây, mọi người đều xì xào. Peter phải xử dụng đến chiếc máy phiên dịch liên hành tinh, nhưng cũng không kết quả vì đa số người nghe không hiểu chữ giống vật là gì.
- Đó là những sinh vật cấp thấp hơn - Peter giải thích - Chúng không nói được và cũng không biết suy nghĩ.
Anh kể tiếp, các giống vật ngày càng chết nhiều. Ở dưới biển, cuộc sống bị tiêu diệt dần. Có những khu vực mà các giống vật bị tuyệt sản do không khí bị nhiễm chất hóa học. Đến lúc này phải có những giải pháp quyết định. Có những người hiểu rõ rằng, chính loài người cũng có nguy cơ bị tiêu diệt nếu các ống khói nhà máy tiếp tục làm ô nhiễm không khí, nếu các chất thải công nghiệp làm ô nhiễm nguồn nước, nếu có những người khác mà quan điểm cho rằng không khí ô nhiễm và nước có chất độc sẽ chỉ tiêu diệt những người ốm yếu, họ sống cũng chỉ bằng thừa. Theo quy luật chọn lọc tự nhiên, chỉ những người có khả năng chống đỡ tốt nhất, với bộ máy hô hấp mạnh nhất là còn sống được. Nhưng đa số loài người đã quyết định khác. Đến giây phút cuối cùng, các dân tộc chọn một quyết định cứu nhân
Họ quét sạch tất cả những kẻ đã đặt mối ham lợi nhuận riêng lên trên sức khỏe của loài người. Người ta triệu tập những hội nghị lớn và các hiệp định quan trọng đối với sự sống được ký kết.
Biện pháp đầu tiên là cấm tất cả các vụ nổ nguyên tử để chống nguy hại của tác dụng phóng xạ. Ngoài ra những biện pháp quốc tế khác được dùng làm sạch nguồn nước, các suối, các sông hồ và các đại dương. Các xí nghiệp và các thành phố bắt buộc phải có hệ thống làm sạch nước thải trước khi đưa ra sông biển. Biện pháp thứ ba, thay vì vũ khí, người ta xây dựng các hệ thống làm sạch các công trình thủy lợi và sản xuất các máy nông nghiệp để phát triển trồng trọt.
Kế đó có những biện pháp quốc tế đẩy mạnh việc trồng rừng, làm ruộng bậc thang trên các sườn núi để trồng rau. Thanh niên toàn thế giới đảm nhận trọng trách bảo vệ Cây và Rừng.
Nhờ những biện pháp đó nên khoa học lại trải qua một thời kỷ nở hoa mới. Các sáng chế nối tiếp nhau liên tục. Chúng chỉ được duyệt nếu kỹ thuật và nền văn minh phát triển không gây tổn hại cho môi sinh tự nhiên. Tất cả các phương tiện giao thông vận tải gây ô nhiễm không khí đều bị cấm chỉ. Tất cả các xí nghiệp gây ô nhiễm môi sinh đều phải dẹp bỏ. Thay vào những thành phố chật chội và phản vệ sinh bằng những khu dân cư đầy ánh sáng. Cuối thế kỷ 21 đã tiến đến hoàn toàn giải trừ quân bị. Các công nghiệp chiến tranh đều bị đình chỉ. Các cơ sở để cải hóa các nguyên tố từ đó đến nay chỉ dùng để phục vụ hòa bình và sự phồn vinh ... Hiện nay chúng tôi có khí Oxy không hạn chế, các rừng cây, các vườn hoa, nước trong lành, không khí không ô nhiễm, các đồng ruộng năng suất cao, và hàng triệu con người khỏe mạnh và hạnh phúc. Cuộc sống hiện tại trên Trái Đất chúng tôi là như vậy đó các bạn ạ.
- Bạn là ai và bạn làm cách nào để tới được đây? - Một giọng trẻ em hỏi.
- Tôi là ai ấy à? Tôi là một người bình thường, theo tiếng nói của các bạn thì tôi là một sinh vật. Tôi đã bay tới đây qua một khoảng không gian rộng lớn. Tôi ngồi trên một con tàu vũ trụ, trông nó như một chiếc nhà nhỏ trong thành phố của các bạn. Nhưng tự nhiên tôi bị rớt xuống đây, không biết con tàu của tôi ra sao? Và cũng không biết vợ tôi ra sao nữa, vì cô ấy còn ở trong con tàu. Tôi đi tìm nàng và các bạn. Các bạn có biết tin tức gì về cô ấy không? ... Có lẽ các bạn có thể giúp đỡ tôi tìm được nàng ...
Mọi người im lặng. Họ đang cố gắng tìm hiểu những thông tin để nhận thức được. Cuối cùng một thanh niên phá tan sự im lặng. Anh cũng là một trong những người làm việc trên thành phố. Nhưng thỉnh thoảng anh tới đây để tranh luận và suy nghĩ, ở đây họ không lo bị một cuộc kiểm tra đột xuất hoặc đơn giản hơn, để giúp đỡ và dạy dỗ những người chạy trốn.
- Tôi được biết chút ít, may ra có thể giúp đỡ được bạn. Tôi là thợ cơ điện và lắp các máy móc dùng để ghi nhận các dao động điện tử cao tần. Nghĩa là các máy thu thanh.
Peter nhảy dựng và reo lên vì kích động:
- Thế mà khi nãy ON nói là trên hành tinh Oxy không có điện đài và người ta không thể nói chuyện bằng vô tuyến được.
- Lần đầu tiên tôi được nghe về các là sóng là do anh nói - ON đáp.
- Trong khi làm việc, tôi chú ý đến một hiện tượng kỳ lạ - Anh cơ công kể tiếp - Cách đây ít lâu tôi luôn luôn nghe thấy một tiếng động nhịp nhàng mà trước đây tôi chưa bao giờ nghe thấy. Tôi không hiểu được nhịp điẹu đó. Không biết nguồn tin xa xôi đó nói gì nhưng khi nào nó cũng đến trên làn sóng 19,31 ...
- Chính là làn sóng của con tàu Nhân loại.
- Anh nghe nhé, tôi có thể gõ lại theo nhịp điệu đã nghe.
Anh bắt đầu gõ. Tim Peter thắt lại khi nghe thấy tín hiệu morse: tach tè tạch - tạch - tè - tạch - tè tè.
Peter:
- Như vậy là July còn sống ở trong con tàu Nhân loại ! Nàng đang ở buồng lái của con tàu và đang tìm tôi ! - Anh hồi hộp hỏi:
- Tôi làm thế nào để đáp lại những tín hiệu đó? Và tới đâu để phát tín hiệu?
- Không có chỗ nào cả. Mọi tín hiệu đều bị Trung Tâm xóa sạch.
- Điều này không thể có được ! Cũng hệt như cậu có thể thu được tín hiệu gọi. Thì một người nào đó cũng có thể phát được tín hiệu khác chứ !?
Anh cơ công lắc đầu:
- Những tín hiệu chỉ tới được nơi nào Trung Tâm muốn. Tôi cũng không hiểu tại sao họ để cho nó lọt tới nơi tôi làm việc. Và lần nào tôi cũng thu được những tín hiệu đó trên làn sóng đó, không sai chút nào. Đáng tiếc là tôi không vẽ được các trang thiết bị thu phát sóng điện tử trên hành tinh Oxy. Tổ chugns tôi sản xuất những thiết bị đó cho Trung Tâm mà. Tôi cũng biết rằng ngay trong các Thành phố trí nhớ này có những trạm thu và phát những tín hiệu như vậy. Nhưng những trạm này không được phép liên lạc với nhau mà chỉ được liên hệ với Trung Tậm. Vì vậy những tín hiệu vô tuyến truyền từ ngoài vũ trụ tới thì chỉ có Trung Tâm kiểm tra thu được thôi.
- Nhưng bạn vừa nói là bạn có thu được tín hiệu của con tàu Nhân Loại mà?
- Chúng tôi chỉ tiếp nhận được những tín hiệu mà Trung Tâm chuyển tiếp cho để tiến hành công việc. Đó là những tín hiệu mà chúng tôi luôn luôn hoàn toàn không hiểu được. Chúng tôi không được phép giải những tín hiệu đó. Nếu tôi tìm cách đáp lại, lập tức Trung Tâm sẽ đập xóa những tín hiệu này tại chỗ. Nếu các trạm trong các Thành phố trí nhớ tìm cách liên hệ với nhau thì cũng bị đập xóa.
- Nhưng Trung Tâm làm việc đó bằng cách nào?
- Tôi không được biết.
Thế Trung Tâm là cái gì? Trung Tâm là ai? Thế lực vô hình này là cái gì? - Peter kêu lên! - Trung Tâm đó ở đâu? Tôi muốn tìm ra nó!
Không ai trả lời. Peter hỏi lại lần nữa.
- Tôi tìm cách nào để tới được Trung Tâm đó?
Chung quanh anh lại im lặng. Không ai trả lời nổi!
Peter nêu lên câu hỏi quyết định. Điều mà tất cả mọi người ở đây đều muốn biết. Cái vật hoặc cái con ngươi bí ẩn đang nắm số mệnh họ trong tay đang ở đâu? Bây giờ họ lại càng nghi ngờ về sự chính xác của các cuộc thoải luận là phải có khả năng tìm ra, tìm thấy và nhìn tận mắt cái Trung Tâm đó. Điều này trước nay chưa ai dám phát ngôn rõ ràng.
- Tôi phải trở về con tàu vũ trụ của tôi ... Và phải tìm được một người có thể giúp đỡ tôi làm được việc đó. Nàng July yêu dấu đang chờ tôi. Tổ quốc của tôi là Trái Đất, tôi sẽ không ở lại đây! - Peter lại nêu lên lần nữa - Nếu tôi tìm được Trung Tâm, tôi sẽ tự nguyện để lại đây các dụng cụ và các trang bị của tôi. Chiếc máy sản xuất Oxy của tôi có thể có ích cho các bạn. Tôi sẽ kể lại tất cả những điều tốt biết. Nhưng các bạn phải giúp tôi trở lại với July.
Trước lời kêu gọi tuyệt vọng của Peter. Xung quanh vẫn lặng như tờ.
Lúc này ORO mới đứng dậy:
- Theo tôi biết, có một khả năng. Một khả năng duy nhất. Thỉnh thoảng tôi nhận được một bản câu hỏi về công việc của tôi. Tôi không biết ai gửi và từ đâu nhưng chắc chắn nó từ đài kiểm tra, từ Trung Tâm đến. Đôi khi tôi phải ghi thêm lời giải thích cho các lời đáp. Đôi khi người ta cũng cho tôi biết rằng người ta vừa ý với công việc của tôi. Tôi cho rằng điều này các bạn cũng thường gặp ...
- Đúng như vậy. Tất cả chúng tôi đều nhận được những thẻ kiểm tra.
- Khi nhận được thể kiểm tra lần tới, tôi sẽ ghi lên đó rằng! Chúng ta có một người khách từ hành tinh xa và người khách đó đang ở nhà tôi.
Một sự im lặng, bối rối bao trùm mọi người. Sau đó có nhiều người kêu lên:
- ORO cậu không được làm như vậy! Chỉ viết thêm một chữ thừa lên thẻ đó đã là tội đáng chét rồi ...
- ORO, điều này không thể được ...
- Không được ORO ạ, chúng ta phải nghĩ cách khác.
- Tốt nhất là chúng ta giữ Peter ở đây với chúng tam mãi mãi. Anh có thể sống với chúng ta và có thể dạy chúng ta học ...
- Tất cả chúng ta sẽ lao vào bất hạnh nếu chúng ta báo cáo rằng anh Peter có ở đây ...
- Tôi không tin rằng còn có một cách giải quyết nào khác - ORO đáp lại lần nữa - Tất nhiên làm thế thì cũng nguy hiểm đấy. Nếu chúng ta thông báo rằng Peter ở đây. Có thể xảy ra tai họa lớn. Mà người gặp nguy hiểm số một là Peter. Không đoán ra được cái gì chờ đợi anh ta. Nhưng mà có lẽ họ đã biết tất cả. Có lẽ họ đã quan sát anh ấy từ lâu rồi. Nếu vậy ta tìm cách nhìn thẳng vào điều không thể tránh được có phải là thông minh hơn không?
Peter bước tới trước mặt ORO:
- Nếu bạn sẵn sàng làm việc đó, ORO ... Nếu bạn có dũng khí làm việc này, tôi hết sức đội ơn bạn. Tôi đã quyết tâm tìm gặp thế lực đó dù cho nó là ai và dù cho nó ở đâu chăng nữa. Tôi không thể ngồi im lâu hơn nữa vì tối sẽ phát điên lên mất. Các bạn hiểu cho. Tôi không biết điều gì đã xảy đến với vợ tôi. Thực thà, tôi không muốn đưa các bạn vào vòng nguy hiểm. Nếu vậy có lẽ tôi sẽ phải đi khỏi đây. Tôi sẽ đi đến đường phố xa nhất và tìm cách lọt vào mỗi nhà cho đến khi đụng phải một mắt lưới kiểm tra. Tôi sẽ tìm cách mở các cửa và đi theo con đường lăn. Cứ như thế, nếu tôi gặp điều gì rủi ro, tôi sẽ không bao giờ tiết lộ lối vào hang động của các bạn cũng như bất kỳ người nào trong các bạn.
ORO đứng dậy tuyên bố với Peter:
Tôi hy vọng rằng vận may đã cùng bạn tới đây.
Cuộc hội thảo đã kết thúc như vậy.
-- Víp Truyện Chấm Prồ --
T
hành phố OXY.
Trung tâm vô tuyến 14-0-1207 8 giờ 77.
Thu được trên làn sóng 6,17: Peter Mac Gulliver đây! Trả lời đi July em! Đây Peter ! Đây Peter!
Nhạn xét quan trọng:
Lần này sóng phát ra từ khu vực Thành phố của những người có trí nhớ số 5.
Đã tiến hành chắn sóng! Gửi các nhà đương cục về an ninh. Khẩn1
CHỈ THỊ
Thành phố OXY 15-6-1207 9 giờ 30.
Mỗi trung tâm kiểm soát vô tuyến và mỗi đài Rada phải báo cáo hàng giờ cho Thái tử.
Các cơ quan an ninh tổ chức kiểm tra tổng quát trong các thành phố của những người cso trí nhớ.
Trong vòng 60 giờ báo cáo lại cho Thái tử Recke
Thiện vương XIII
24. ORO NHẬN ĐƯỢC LỜI ĐÁP
Từ khi ORO gửi lời nhắn tin đi, một vài ngày đã trôi qua. Hôm đó anh phải báo cáo trên một tờ mẫu về khả năng ứng dụng của một loại dụng cụ phẫu thuật mới. Các câu hỏi liên quan đến độ chính xác của dụng cụ về hình thức chế tạo và chất lượng của hợp kim. ORO đã trả lời chu đáo từng câu hỏi. Khi tới cột "những nhận xét quan trọng khác" thông thường anh để trống. Lần này anh viết trong thành phố có một người dân của Trái Đất đang tạm trú và anh ta muốn trở lại con tàu vũ trụ của mình.
Anh chần chừ trong giây lát rồi ấn lên một nút của bản điều khiển. Tờ giấy lập tức biến đi tới một nơi nào không biết. Lúc này, chiếc lao đã phóng đi, không thể thay đổi gì được nữa.
Báo cáo đã được gửi đi nhưng trong ngày đó không có hồi âm. ORO lại tiếp tục nhận được những chỉ thị mới. Phải giải những bài toán và bố trí những thí nghiệm và cũng nhận được những bản câu hỏi in sẵn khác. Nhưng không có dấu hiệu gì rằng một người nào đó nhận, đã đọc và ghi nhớ lại thông báo của anh.
Sau khi suy tính kỹ trong hai ngày. Peter quyết định dọn lên ở Thành phố trí nhớ. Anh nghĩ, ORO nhận được trả lời, người ta sẽ lập tức tìm kiếm anh như một người mới tới. Và nếu anh còn tiếp tục ở trong hang động thì có thể tiết lộ chỗ ẩn náu của mọi người. Nói chung, cuộc sống của những người trốn tránh trong hang động còn là một bí mất đối với quyền lực cai trị.
Hồi âm càng chậm tới thì Peter và các bạn càng lo lắng. Peter luôn cảm thấy rõ ràng rằng, có một nơi nào đó biết rõ về anh, đã ghi nhận việc anh đến hành tinh này và có lẽ đã theo dõi anh suốt chặng đường ở Thành phố những người mang vòi. Chính ở đó nguwòi ta đã thu được tín hiệu gọi của July từ con tàu vũ trụ Nhân Loại cũng như đã thu được những tín hiệu gọi dai dẳng và tuyệt vọng của anh tìm July. Theo các tín hiệu đó, tất nhiên họ đã xác định được anh đang ở đâu vào lúc phát sóng. Đến lúc này, Peter đã tự đăng ký chính thức - Nếu như ở đây có một loại công sở và anh phải chuyển vào ở trong thành phố.
ON và Ánh Dương cũng thống nhất nhận định này. Tuy rằng ON rất luyến tiếc khi phải xa rời Peter. Kể cả ON con và đám trẻ khác cũng không muốn để Peter ra đi.
- Anh bạn từ Trái Đất, hãy ở lại với chúng em và dạy cho chúng em học ! - Các em bé thỉnh cầu.
Những ngày Peter ở trong hang với các em đã để lại trong anh những ấn tượng mạnh. Anh hiểu nhưng không thể tưởng tượng được những sinh vật sống trong tình trạng Oxy bị hạn chế từ một, hai có thể đến mười thế hệ bị thoái hóa như thế nào. Điều này thể hiện rõ nhất trong ngày Đại Lễ Mùa Xuận.
Trong những tháng đầu tiên chào đời, các hài nhi được cung cấp dồi dào Oxy. Ngoài việc bú sữa mẹ, chúng còn được ăn gì nữa mà anh chưa rõ. Nhưng chắc chắn là bộ não của các em có khả năng tiếp thu tất cả những điều có thể học được. Peter kinh hãi khi nghĩ đến việc họ đã đày đọa hầu hết những em bé vô tội đó xuống Thành phố những người mang vòi. Và trong số đó chỉ cón một vài em được trở lại Thành phố trí nhớ với những nhiệm vụ được chỉ định hết sức nghiêm ngặt ...
Nhưng ở đây, liệu số phận các em có tốt đẹp hơn không? Peter lòng đầy thông cảm nhìn những bộ mặt nhợt nhạt không khi nào được hưởng ánh nắng Mặt Trời. Nhưng con mắt sáng long lanh thêm hiểu biết. Những cơ thể gầy còm thiếu dinh dưỡng. Và nhất là cảnh các em hối hả ngốn ngấu ăn nấm cỏ sống và các rễ cây sống.
Đôi khi những bà mẹ khóc lóc và tự trách mình có lỗi. Việc cá bà mang con trốn tránh sự phục tùng của Chúa để khỏi mất con liệu có phải là việc làm đúng không?
Những đứa trẻ ở hang sẽ ra sao? Nuôi các em trong hang sâu với vài thứ nấm và rễ này quả là một sự chịu đựng dũng cảm. Nhưng sẽ đi đến đâu? Cho trẻ em học hành có tác dụng gì khi suốt cuộc sống của chúng phải luôn luôn đấu tranh để giành được miếng ăn, một ngụm nước, một hớp không khí, chống lại một quyền lực vô hình? ...
Peter đã kể cho các em nghe tất cả những điều anh biết về các con tàu vũ trụ, về cây cỏ và động vật. Anh cho các em xem những máy móc dụng cụ của anh. Anh bấm nút sản xuất ra Oxy và đường tại chỗ để chia cho các em. Anh đã đi được một quãng mà các em còn nhắn théo:
- Hỡi người bạn từ Trái Đất, hãy trở lại với chúng em. Chúng em sẽ chờ anh.
Khi từ biệt ON và Ánh Dương. Anh thân thiết xiết chặt họ trong vòng tay. Liệu sau này có còn gặp mặt họ được không?
Peter đã định để lại tất cả trang bị của mình trong hang động. Nhưng trước mắt anh đành phải mang theo vì anh chưa rõ cái gì chờ đợi mình ở phía trước.
Ra khỏi động, Peter leo lên sườn núi. ORO đứng đón anh phía trên và dẫn anh về nhà.
Peter để ý xem kỹ ngôi nhà của ORO. LÚc đầu khi anh và ON tới đây tinh thần khá căng thẳng và chỉ đứng lại ở phòng khách tầng trệt có một lát nên chưa quan sát kỹ được.
Đó là một ngôi nhà rộng rãi, đủ tiện nghi thoải mái. Những ghế và giường được bọc nệm êm ái. Ở lầu một là các phòng ngủ trải thảm màu xanh nhạt chạy chỉ vàng. Và những phòng tắm tiện nghi có một vòi nước pha sẵn xà bông và một vòi nước trong sạch ấm ấm. Trên tầng nóc còn có một phòng làm việc, có nhiều sách chuyên môn cho lĩnh vực đặc biệt của ORO. Ở tầng trệt, ngoài phòng khách lớn ngay gần cửa, còn một phòng xem truyền hình nhỏ hơn và kế đó là một phòng chơi bài với các bàn vuông bọc nỉ và bàn rulét. Bên tường có những tủ rượu, tủ nào cũng đầy thức uống. Trong nhà không có bếp và cũng không có gì ăn, ngoại trừ một gói kẹo. Khi bạn đói bụng bạn phải tới một câu lạc bộ hoặc một nhà hàng mới có ăn. Không khí ngoài phố xá thuộc loại nghèo Oxy. Khi ra phố phải đeo mặt nạ và mang bình Oxy phụ. Các trạm tự động chỉ nạp Oxy vào bình khi bạn xuất trình thẻ dục lỗ. Cũng may mắn là Peter có thẻ sản xuất bao nhiêu Oxy tùy ý. Tới mức anh và ORO có thể dùng hết đời. Lúc đầu Peter không muốn tới các phòng ăn. Nhưng từ lâu ORO và các bạn đã quen với việc lấy thực phẩm cung cấp cho những người trong hang. ĐẦu tiên họ dùng thẻ đục lỗ của mình ăn ở một nơi, sau đó qua một phòng ăn khác đặt lại bữa ăn và mang tất cả về. ORO bàn với Peter rằng anh cứ chờ ở nhà, ORO sẽ mang thức ăn về. Nhưng Peter ngĩ ra một sáng kiến: Anh ngồi vào một bàn trong phòng ăn và ấn thẻ đục lỗ của ORO vào máy phát thức ăn . Giây lát, thức ăn hiện ra trên bàn và máy tự động đẩy thẻ ra ngoài. Lúc này, ORO ngồi vào ghế đối diện thì máy tự động lại dọn cho anh một xuất thức ăn nữa với tấm thẻ đó mà không phản ứng gì. Bằng cách đó với một tấm thẻ họ có thể gọi một lúc mười xuất ăn cũng được.
Tuần đầu tiên trôi qua và ORO vẫn không nhận được hồi âm. Peter đã nghĩ rằng, có lẽ họ không chú ý đến thông tin của anh. Chắc họ để lầm nó giữa các bản tính và bản vẽ trong một hộp phiếu không đáy nào đó. Do vậy thông tin đã biến mất và không có ai trả lời nữa. Đầu tiên ý nghĩ đó làm anh thất vọng. Nhưng rồi anh cảm thấy rằng, tốt nhất là họ đừng chú ý đến anh nữa và anh sẽ tìm cách khác để rời khỏi đây ... Nhưng anh cảm thấy như mình đang trong một cái bẫy chuột. Có những lúc anh tuyệt vọng đến mức muốn xin ORO mấy giọt thuốc ngủ sâu hoặc một thứ thuốc say nào đó để quên hết, quên được tình trạng bế tắc vô vọng của anh.
Cứ như thế, anh đã ở nhà ORO tới gần ba tuần.
Ngay cả ORO cũng không yên tâm. Mỗi buổi sáng anh đi làm tại bệnh viện. Còn buỏi chiều anh ngồi với Peter trước máy truyền hình buồn tẻ. Anh trầm ngâm nhìn bóng hình trên máy. Suốt thời gian này ORO ko dám mời các bạn tới chơi nữa. Ngay cả khi ở phòng ăn hai người cũng ngồi riêng một bàn, để tránh phiền phức. Một ngày kia ORO nhận được một bài toán mới. Cuối cùng, sau đoạn chỉ dẫn cứ thế. Phía dưới tờ giấy có ghi thêm:
- Con người Trái Đất lập tức tớ con đường lớn thứ tư ở quảng trường Trung Tâm!
Chỉ có từng ấy chữ. Trước đây ORO càng nóng lòng chờ đợi tin tức bao nhiêu thì bây giờ anh càng hoảng hốt bấy nhiêu. Anh tạm ngừng công việc và chạy vội về nhà. Khi được thông báo, Peter cũng tái mặt. Hai người hỏi nhau
- Không biết chúng ta đã hành động đúng hay sai.
Anh cũng tự hỏi như vậy, nhưng bây giờ không còn là lúc để chọn lựa. Phóng lao thì phải theo lao.

uảng trường Trung Tâm là điểm xuất phát của rất nhiều con đường lăn. Những con đường này mang những người có trí nhớ từ nơi ở tới chỗ làm việc. Trong thành phố ngăn nắp và đẹp đẽ này có từ mười lăm đến hai mươi loại nhà khác nhau, lớn và nhỏ, quét vôi màu khác nhau. Chúng được dựng lên giữa các hàng cây và bụi cây nhân tạo. Cách mười hoặc hai mươi nhà lại có một câu lạc bộ, một cửa hàng ăn và một cửa hàng bách hóa tổng hợp. Rồi quảng trường với cây cối nhân tạo và rồi tới dãy nhà ở khác. Thành phố rộng lớn một cách đáng ngạc nhiên. Trừ quảng trường Trung tâm, không nơi nào có cảnh đẹp. ORO tiễn đưa Peter tới tận quảng trường Trung Tâm. Hai người yên lặng đi bên nhau, lòng đầy lo âu.
Giờ phút quyết định không thể trì hoãn được nữa. Cho tới lúc này, họ cũng khôgn thể biết được cái Thế lực có quyền sinh quyền sát này sẽ ủng hộ hay chống đối họ. Nhưng cũng chẳng còn khả năng nào khác.
Peter bước lên đường lăn số 4, thầm nghĩ không biết có gặp lại ORO nữa không:
- Xin cảm ơn anh. Anh ORO.
- Chúc Peter và tất cả chúng ta nhiều may mắn!
Peter buồn rầu nhìn lại nhưng quyết định ra đi. Anh nói:
- Không! Không còn giải pháp nào khác. Nhưng ta không sợ họ đâu.
Đường lăn dẫn Peter đi một đoạn trên những con đường giống hệt như anh đã thấy từ trước đến nay ở Thành phố trí nhớ. Đột nhiên, anh tới trước, một ngăn kín. Một cánh cửa tự động mở ra. Bây giờ anh đi theo một hành lang kín với ánh sáng màu lục nhạt mờ ảo. Tốc đọ băng tải ngày càng tăng. Con đường lên dốc liên tục. Đột nhiên băng tải dừng lại. Peter chút xíu nữa bị ngã chúi. Anh lại đứng trước cánh cửa thứ hai. Cửa tự động mở Peter bước vào vài bước thì cửa sập lại sau lưng. Anh cảm thấy như đi trong sương mù dày đặc, hay trong một luồng hơi đang tuôn.
Anh tập trung cố gắp nhận thức xung quanh. Tứ phía đều là những đám sương mù dày đặc màu xám bồng bềnh trôi. Anh dang đứng cô lập ở một nơi hoàn toàn xa lạ, không nhìn thấy gì và cũng chẳng nghe thấy gì. Bông nhiên trước mắt anh hiện ra một vật bóng nhoáng màu bạc giống như một chiếc thang. Anh bước lên bậc thứ nhất. Quả là một chiếc thang. Tuy trong lòng bối rối và đầy nghi hoặc, anh leo tiếp vài nấc nữa. Lúc này sương mù đã loãng hơn nhưng anh vẫn chưa trông rõ mọi vật. Tuy vậy anh phát hiện ra đường nét của một chiếc máy bay, cửa nó tự mở ra và đóng lại sau khi anh bước lên.
Peter thấy mình trong phòng hành khách rất đầy đủ tiện nghi của một chiếc máy bay tương đối nhỏ. Ngoài anh, trên máy bay không có ai, kể cả phi công.
Sau khi anh chọn một ghế ngồi phía sau cánh, chiếc máy bay lập tức khởi động và gần như bay lên theo chiều thẳng đứng. Nó bay khá lâu trong sương mù. Những đám mây loãng dần rồi cuối cùng chiếc máy bay bay vào vùng ánh sáng.
Lúc này anh trông rõ phía dưới máy bay là những đám mây bồng bềnh vô tận. Nhưng khác là chúng không trắng như chúng ta quen thấy các biển mấy ở Trái Đất, ngược lại chúng rất bẩn, màu vàng và nâu. Phía trên máy bay là bầu trời xanh trong vắt và sáng chói. Lúc này Peter không quen với ánh nắng nên anh buộc phải nheo mắt. Anh cho rằng chung quanh mình lúc này cũng chỉ là ảo ảnh. Một cảnh dựng lên để dành cho anh. Vì màu xanh quá đẹp. Anh cảm thấy chung quanh mình toàn là khí Oxy loảng và ánh nắng Mặt Trời có vẻ mạnh hơn ở Trái Đất hàng trăm lần.
Một chiếc bàn nhỏ tự động lăn tới trước mặt anh. Trên mặt bàn có một cái ly đựng thức uống và một cái đĩa đựng mứt trái cây. Nước giải khát về màu sắc, hình dáng và hương thơm hấp dẫn tới mức Peter vội vàng dùng thử.
Vừa uống xong anh chột dạ nghĩ: có lẽ mình đã nhìn lầm? Mình không nên tin tất cả những gì mình đã nhìn và nghe thấy ở dưới kia. Có thể mình đã không rơi vào tay một thế lực xấu xa chuyên hủy hoại con người. Mọi cái ở đây đều là tiện nghi và chăm sóc chu đáo. Hoặc là chúng láu lỉnh và tinh khôn hơn mình? Hoặc là chúng cũng muốn dùng hương thơm, vị ngọt và sự hào nhoáng để ru ngủ sự sợ hãi và sự cảnh giác của mình? Có lẽ người ta muốn thử thách mình với tất cả những điều đó? Hay là sự ngạc nhiên vui thích và không hứng thú sẽ lần lượt thay thế cho nhau?? Nếu vậy, điều này chỉ nói lên là người ta muốn yêu cầu mình một cái gì đó. Làm sao mà nhưng người này vừa đáng yêu vừa đáng sợ được? Ai mà biết được?
Cẩn thận! Ta phải cẩn thận!
Nhưng những sự kiện dễ chịu lại tiếp tục xảy đến. Peter chưa ăn xong hẳn thì cảm thấy máy bay giảm thấp độ cao. Rồi nó hạ canh trên một đường băng ngắn. Máy bay dừng lại, cửa mở ra, một cầu thang hiển a.
Peter bước ra khỏi máy bay. Vừa đặt chân xuống đất thì con đường lăn tự di chuyển. Một tấm cửa kiếng lớn cũng tự động mở ra trước mắt anh. Peter thấy mình đang ở trong một phòng đợi lớn, với những nét trang trí màu lục. Trong phòng đợi anh cũng không gặp ai. Con đường lăn tiếp tục đem anh đi vào sâu hơn. Một cửa thứ hai lại mở ra trước mặt anh. Đột nhiên anh ra tới quảng trường trước sân bay. Một công viên tuyệt đẹp. Peter phải reo lên vì sự ngạc nhiên.
Quảng trường chạy dài, lớn hơn quảng trường trước nhà thờ thánh Pi-e ở Rom. Giữa quảng trường là một đài phun nước với một nhóm tượng nhẹ sinh động có cả nam, nữ và trẻ em, những con ngựa đang chồm lên. Tất cả như đang nhảy múa trong giòng nước lóng lánh sủi bọt đang phun. Chung quanh đài phun nước có trồng nhiều cây lớn, cây nhỏ và hoa cũng nhiều. Xa xa người ta thấy những đường nét của những công trình xây dựng tráng lệ. Những lâu đài bằng đá hoa cương màu trắng và màu hồng. Phía trên quảng trường vẫn là màu trời xanh mát ...
Anh thoáng suy nghĩ rồi tháo bộ máy hô hấp của mình ra, hít mạnh không khí. Anh cảm thấy mình đang thở một loại không khí giàu Oxy và thoang thoảng có mùi thơm.
Thứ không khí này ta chỉ được gặp ở những nơi đẹp nhất trên Trái Đất, cảnh tuyết phủ chói chang ánh năng vùng Coradơ hoặc vùng Anpơ hoặc dưới các dãy cây cọ đảo Hawai hoặc trong các cánh đồng hoa ở Tibany, anh thở ngày càng sâu và lần này hoàn toàn say sưa vì vui thích! Khí Oxy! nguyên tố sinh động kỳ lạ đó tràn ngập không hạn ché dưới bầu trời xanh trong vắt. Đài phun nước và cây cối đang nở hoa. Gần đó là một dãy bụi cây thấp. Anh bước gần một bụi cây và lấy tay sờ thử lên chiếc lá: Đó là một cây thực đang sống, có cành lá rườm rà và những bông hoa màu đỏ tươi.
Sao có thể như vậy? Mình có còn ở trên hành tinh Oxy không? hành tinh của sương mù ngột thở, của các ngôi nhà bê tông ảm đạm, của những người khốn khổ trốn tránh trong hang động?
Anh cứ đứng thế đến hai phút, mắt chớp chớp trong ánh sáng rực rỡ, hít thở mạnh, thưởng thức khí Oxy đang ào ạt tràn vào phổi và các mạch máu. Một chiếc xe hơi màu trắng như tuyết nhẹ nhẹ lăn tới trước mặt anh. Nó giống như một chiếc xe hơi trên Trái Đất chạy trên các bánh xe được lau chùi bóng nhoáng, không có tiếng động. Cánh của xe bất mở. Một chàng thanh niên bước ra khỏi xe. Anh ta mặc bộ quần áo bằng thứ vải rất đẹp nhưng cắt theo kiểu hơi lạ so với Trái Đất. Nó có vẻ quá bó chặt lấy người. Chàng ta không mang máy hô hấp. Anh ta nhiệt tình chìa tay cho Peter bắt và mìm cười chào anh.
Peter định trả lời ngay nhưng anh kịp thời trấn tĩnh. Đầu tiên mình cứ nên làm như không hiểu tiếng nói của hành tinh Oxy thì khôn ngoan hơn. Anh lắc đầu và ra hiệu bằng tay rằng anh không hiểu gì hết! Anh với tới túi dụng cụ, rút chiếc máy phiên dịch liên hành tinh ra bật lên và nhìn lại người thanh niên.
Chàng ta nhắc lại.
- Thay mặt Trung Tâm hành tinh Oxy, tôi nồng nhiệt chào mừng người dân của Trái Đất xa xôi. Tôi hy vọng rằng ngài đã qua một chuyến bay tốt đẹp và sẽ cảm thấy thoải mái ở chỗ chúng tôi, sau tại nạn đáng tiếc mà ngài đã gặp.
"Như vậy ở đây người ta cũng đã biết anh đã tới đây lúc nào và khi nào" Anh đáp lại sau nhi bắt tay:
- Ở đây tất cả đều đáng ngạc nhiên, trước đây tôi không thể mơ tưởng điều đó.
Người thanh niên gật đầu một cách lịch sự và mời anh ngồi vào xem. Trong xe không có vô lăng mà chỉ có một bảng điều khiển. Người thanh niên bấm nút, các cửa xe đóng lại. Chiếc xe lướt êm theo một con đường ngoằn ngoèo rất láng tiến về sườn núi phía trước.
Chưa bao giờ Peter được thấy một cảnh tráng lệ như vậy. Anh cảm thấy như tất cả những cảnh đẹp trên Trái Đất đã tập trung tại đây. Những đỉnh núi cao phủ tuyết trắng. Những vách núi dựng đứng. Những thác nước. Những rừng cây bạch đàn và cây cọ, cây thông bạc và cây nguyệt quế ... Giữa cảnh thiên nhiên với màu sắc rực rỡ, hình dáng phong phú và hương thơm ngọt ngào, thỉnh thoảng lại xuất hiện nhưng ngôi nhà. Cỗ này là một lâu đài cẩm thạch. Chỗ kia là một ngôi nhà giống nhà gỗ Phần Lan. Nơi khác lại là một công trình kỳ ảo bằng thủy tinh làm Peter hết sức ngạc nhiên. Hai bên đường có rất nhiều bụi cây và bụi hoa. Lưng chừng núi có những con suối và thác nước đổ xuống. Giữa thung lũng hiện lên những mặt sáng long lanh của các hồ. Trên đó những chiếc thuyền buồm và thuyền máy đang chạy nhanh kéo theo những người lướt ván. Peter thấy mình đang ở một xứ sở đẹp đẽ ở Thụy Sĩ, Hawai hay vùng Carimê nổi tiếng. Chung quanh những tòa nhà rải rác khắp nơi, anh thấy có những nguwòi đi lăị. Đặc biệt là rất ít người nếu so với chiều rộng và kích thước của các ngôi nhà.
- Tôi có cần mở cửa xe cho thoáng?
- Xin cám ơn ông - Peter nói và gật đầu.
Chủ xe ấn ngón tay vào một chiếc nút. Lập tức không khí mát bên ngoài mang theo mùi hoa thơm cỏ dại ùa vào trong xe. Chiếc xe chạy không một tiếng động, nhưng cảnh bên ngoài còn yên tĩnh hơn. Xe đi sát một cái hồ, trên đó có nhiều người đang lướt ván. Các xuồng mày lướt trên mặt hồ không một tiếng động.
Peter lại nhận ra tiếng động khác: đó là tiéng chim hót líu lo, tiếng âm nhạc, tiếng xì xào của cành lá. Chúng lan rộng hệt như không khí dễ chịu làm anh ngây ngất. Peter nhớ rằng chưa có lần nào anh có được cảm giác thoải mái đến như vậy. Sự lo lắng bất an hình như biến mất trong chiếc máy bay. Anh chủ động hỏi người tới đón mình:
- Như vậy, quý ông đã biết là tôi từ Trái Đất tới đây?
- Phải, điều đó chúng tôi biết!
- Quý ông cũng biết tàu vũ trụ của tôi bị sự cố?
- Phải!
- Và điều gì đã xảy ra với vợ tôi?
- Bà ấy hiện ở trên con tàu vũ trụ. Bà ấy vẫn mạnh khỏe.
Nghe tới đây, tim Peter đập mạnh:
- Quý ông có liên hệ vô tuyến thường xuyên với cô ta không?
Người thanh niên mỉm cười bí ẩn:
- Ngài muốn nói thường xuyên? Điều này chúng tôi không giám nói. Do nhiễu loạn về khí quyển nên trong lúc này không thể liên hệ vô tuyến được.
- Và tôi có thể ... Tôi có được phép hy vọng rằng quý ông sẽ giúp đỡ tôi để bắt liên lạc với vợ tôi không? Tôi có thể hy vọng rằng quý ông giúp tôi trở lại con tàu vũ trụ không?
- Đó là lẽ đương nhiên - Người thanh niên mỉm cười - Chính vì vậy mà chúng tôi đã mời ngài đến đây.
Chiếc xe hơi tới gần đỉnh núi. Con đường lộ ngoằn ngoèo chạy qua một vườn hoa khổng lồ. Tại đây nhiều loại cây, nhiều hoa còn đẹp hơn dọc đường. Giữa các thác nước, các ao nhỏ và các suối phun nước, anh thấy lấp ló hàng trăm bức tượng điêu khắc. Anh còn thấy một vài bức tượng đứng có trang trí đầy hoa tươi. Một trong những tượng đó giống hệt người thanh niên đang cùng đi với anh.
Sau khi anh đã gặp lại ba chục bức tượng đứng như thế và mỗi lần cứ liếc qua liếc lại giữa bức tượng và người ngồi gần anh, thì người trẻ tuổi khiêm tốn mỉm cười giải thích:
- Ông Peter thân mến. Hành tinh Oxy là một vương quốc. Người trị vì vương quốc hiện nay là Thiện Vương XIII. Còn tôi là trưởng nam của người. Tên tôi là Recker, sau này khi tôi được nối ngôi tôi sẽ mang tên hiệu là Thiện Vương XIV.
Peter ngạc nhiên nhìn người đang nói chuyện với mình. Anh nhớ rằng trên Trái Đất, cả hàng ngày năm nay không còn một ông vua nào trị vì nữa. Như vậy người đàn ông hòa nhã và cởi mở này không có lẽ là ông vua tương lai của hành tinh đầu mâu thuẫn và không thể hiểu được này? Có phải bộ óc của ORO và ON được đặt chương trình theo lệnh của người này? Có phải vì ông ta mà những người mang vòi phải vất vả vì thiếu khí thở? Những sinh vật phải ẩn nấp, co quắp trong hang cũng vì người này? Phải! Chính người đang ngồi trên chiếc xe hơi đầy tiện nghi cứ chạy hoài về phía trước. Nhưng tới đâu? Như trả lời cho thắc mắt của Peter, chiếc xe dừng lại.
- Nếu ông muốn chúng tôi bố trí cho ông riêng một nhà để sử dụng ... Hoặc nếu ông không chê thì xin dành cho ông một căn phòng trong tệ xá.
Cái "tệ xá" đó thực chất là một lâu đài trong mộng. Thái tử kẽ ra hiệu mời. Peter bước xuống xe và đứng trước cổng chính. Tất cả những gì mà Peter có thể tưởng tượng về mặt đẹp đẽ, tiện nghi, độc đáo, thẩm mỹ và giàu sang đều hiển hiện ra trước mắt anh. Không thể so sánh lâu đài này với những công trình nổi tiếng ở trên mặt đất như những vòm mái ở đền thờ Cordobon, các hòn đá hoa cương trắng ở đền Tasan Mahan, như sự thanh thảnh đầy ý nghĩa của tượng Phật ở Kamakura ... Khi Peter đứng ở cửa chính, anh hết sức ngạc nhiên và ngỡ ngàng vì trước mắt anh là một công trình nghệ thuật hợp với thuật kiến trúc bằng đá hoa cương, đá rửa quý và vàng. Trên đó là bầu trời xanh thẫm. Ngay cả những đám mây trông chẳng khác gì lưới đăng ten. Còn màu xanh của cây cỏ thì sáng tươi như ngọc thạch.
- Sau hai giờ nữa chúng ta gặp lại nhau để ăn trưa - Thái tử nói, gật đầu chào rồi đi thẳng.
Một cánh cửa rộng tự mở ra trước Peter. Anh đặt chân lên một tấm thảm lăn. Nó đưa anh về phía trong lâu đài, vượt qua những lối đi được trang trí đầy nhung lụa, thảm Gobelin và nhiều đồ gỗ đẹp giá trị. Cuối cùng tấm thảm lăn biến thành một bậc thang máy đưa anh đến trước hai cánh cửa trắng như tuyết. Cửa này cũng tự động mở ra êm ru trước mặt anh. Peter bước vào một căn phòng tráng lệ. Lúc này anh mới giật mình nhận xét: Ngay cả ở đây cũng không có người nào đi kèm anh. Trong tòa lâu đài nguy nga này, trừ Thái tử ra hình như không có một sinh vật nào.

.:Trang Chủ:.
Copyright © 2020 - Đọc Truyện - All rights reserved.